PodcastsTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Dernier épisode

Épisodes disponibles

5 sur 53
  • Việt Nam: Đồng bằng sông Cửu Long tìm giải pháp cho tình trạng ngập úng
    Theo các chuyên gia, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều nguy cơ với các hiện tượng triều cường, sụt lún và sạt lở đồng loạt gia tăng. Không chỉ gây ngập úng diện rộng, các hiện tượng này còn làm suy yếu hệ thống đê bao, có thể dẫn đến những sự cố nghiêm trọng nếu không có giải pháp ứng phó kịp thời. Theo báo chí trong nước, trong những ngày đầu tháng 10 âm lịch vừa qua, nhiều khu vực ở Đồng Tháp liên tục ngập sâu do triều cường lên mức cao nhất từ đầu năm. Triều cường mạnh cũng có nguy cơ làm vỡ đê. Cùng thời điểm, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (VAWR) cảnh báo nhiều khu vực trong vùng có khả năng tiếp tục bị ngập úng do kết hợp giữa triều cường, mưa trái mùa và dòng chảy yếu từ thượng nguồn. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 12/12/2025, tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Đại học Cần Thơ và là chủ tịch Quỹ bảo tồn Mekong MCF, giải thích: "Nói về ngập, chúng ta phân biệt ba thông số. Thứ nhất là diện tích ngập, thứ hai là độ sâu ngập và thứ ba là thời gian ngập. Ví dụ các tỉnh ven phía Biển Đông như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều, thành thử khi bị ngập thì sẽ ngập rất nhanh, nhưng mà rút rất là lẹ, tại vì một ngày một đêm có tới hai lần nước ròng, hai lần nước kém. Các tỉnh khác như Kiên Giang, Cà Mau thì lại bị ảnh hưởng chế độ nhật triều, ngập thì cũng ngập nhanh, nhưng lại rút rất chậm, bởi vì một ngày một đêm chỉ có một lần nước ròng thôi. Những tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang thì lại ít bị ảnh hưởng bởi chế độ thủy triều từ Biển Đông, mà bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi lượng nước đổ về của sông Mekong và lượng mưa tại chỗ. Ở những nơi đây có mùa nước mà người ta hay gọi là mùa nước nổi, khoảng giữa rằm tháng 7 thì nước dâng lên từ từ nhưng lại kéo dài cho tới khoảng cuối tháng 9 âm lịch thì nước mới bắt đầu rút được. Còn những tỉnh nằm giữa như Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang thì lại bị ảnh hưởng bởi hai phần. Một phần là các tỉnh phía thượng nguồn như Đồng Tháp, An Giang và một phần khác là các tỉnh ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu... Nếu xảy ra ngập lụt ở Cần Thơ và nếu các tỉnh phía bên trên như Đồng Tháp, An Giang không có nước đổ về tiếp tục và trong khi đó phía Sóc Trăng và Trà Vinh không bị ngập, thì Cần Thơ bị ngập không đáng kể, có nghĩa là ngập, nhưng sau đó nước sẽ rút rất nhanh. Nhưng ngược lại, nếu các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Sóc Trăng cũng bị ngập và cộng thêm các tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang lại ngập nữa, thì lúc bây giờ các tỉnh phía giữa như Vĩnh Long và Cần Thơ sẽ ngập rất sâu. Khi muốn đánh giá ngập ở một chỗ nào thì có rất nhiều nguyên nhân, chứ không đơn thuần một hai nguyên nhân. Và bản chất của chuyện ngập là hoàn toàn khác nhau giữa tỉnh này với tỉnh khác. Nó không chịu một ảnh hưởng nguyên nhân chung, mà mỗi tỉnh có một nguyên nhân riêng. Thậm chí những địa phương trong cùng một tỉnh cũng có những nguyên nhân ngập khác nhau. Và điều đó tác động lên ba thông số mà tôi vừa trình bày: Diện tích ngập, độ sâu ngập và thời gian ngập." Tình trạng sụt lún Không chỉ đối mặt với ngập úng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn đang chịu tác động của sụt lún đất và sạt lở bờ sông, bờ biển. Mưa lớn, dòng chảy thay đổi và tác động của triều cường khiến các điểm sạt lở xuất hiện với tần suất dày hơn. Tại một số khu vực, sạt lở đã ăn sâu vào sát chân đê, làm tăng nguy cơ mất an toàn cho cả tuyến đê lẫn người dân sinh sống ven sông. Phân tích của các chuyên gia VAWR cho thấy việc khai thác nước ngầm kéo dài đã khiến nền đất hạ thấp. Khi nền đất lún xuống, mực nước vốn chỉ ngang bờ kênh nay có thể gây ngập ngay cả khi triều không quá cao. Theo phân tích của tiến sĩ Dương Văn Ni, có rất nhiều nguyên nhân giải thích tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long: "Đồng bằng chúng ta là một vùng đất non trẻ, trước khi hình thành chỉ là những bãi bùn rất là nhão. Sau đó đất bắt đầu dần dần săn chắc và như vậy có một quá trình gọi là 'sụt lún tự nhiên'. Hiện tượng này khác nhau ở từng vùng. Do điều kiện địa chất, có những nơi thì sụt lún tự nhiên khoảng chừng 5 cm, có những nơi thì chỉ sụt một vài cm thôi. Nó hoàn toàn lệ thuộc vào cấu tạo địa chất của lớp trầm tích nằm bên dưới. Nhưng một nguyên nhân thứ hai đó là do chúng ta khai thác nước ngầm. Mà lý do căn bản của chuyện khai thác nước ngầm không phải là người ta thiếu nước ngọt mà là thiếu nước có đủ chất lượng để mà sản xuất và sinh hoạt. Bấy lâu nay chúng ta thâm canh, chúng ta đã sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc trừ sâu và như vậy tạo ra một lượng dư thừa đổ xuống sông rạch và làm ô nhiễm nước mặt. Đặc biệt là trong quá trình xây đê điều, cống đập để ngăn mặn, ngăn lũ, điều tiết nước thì chúng ta cản trở dòng chảy rất là lớn. Do đó bây giờ gần như người dân nông thôn không còn uống nước dưới sông nữa, hoặc là không còn sinh hoạt, tắm giặt dưới sông nữa, bởi vì người ta sợ ô nhiễm. Và chính vì sợ ô nhiễm như vậy, người ta phải khoan rất nhiều giếng để lấy nước ngầm lên xài. Nghiêm trọng hơn là ở những vùng ven biển, khi người ta nuôi tôm thì người ta cần những độ mặn thích hợp cho quá trình con tôm tăng trưởng. Thành thử người ta phải cần rất nhiều nước ngọt  pha loãng với nước mặn để có độ mặn lý tưởng. Và người ta sử dụng một lượng nước ngầm vô cùng lớn không phải chỉ để sinh hoạt, mà cho cả sản xuất, góp phần rất đáng kể vào chuyện làm sụt lún mặt đất. Và nguyên nhân cuối cùng là các công trình xây dựng của chúng ta càng ngày càng dày đặc. Những thành phố ngày xưa chỉ là những nhà thấp thì bây giờ xuất hiện rất nhiều nhà cao tầng, thậm chí những nhà cao tầng đó tập trung rất dày đặc. Với trọng lượng rất là lớn trên mặt đất như vậy nó ép xuống và như vậy cũng sẽ làm tăng mức độ sụt lún chung cho cả vùng. Bao nhiêu năm nay khi nói là nước biển dâng, biến đổi khí hậu, nhưng mà nước biển chỉ dâng chừng vài mm trong vòng 1, 2 năm, trong khi tốc độ sụt lún của chúng ta tới mấy chục mm trong vòng 1 năm.Và như vậy chúng ta thấy là thiên tai đến chậm, nhưng nhân tai đến nhanh hơn!" Sống chung với lũ Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, trước viễn cảnh đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục ngập úng diện rộng trong thời gian dài, thay vì chế ngự nguồn nước bằng đê điều như vẫn làm từ trước đến nay, chính quyền địa phương nên giúp cho người dân ở vùng này học cách sống chung với lũ: "Những năm gần đây, chúng ta thấy rõ ràng ngay cả trong các văn bản của nhà nước cũng không còn mạnh dạn nói chuyện chống hạn, chống mặn, chống lũ nữa, mà đang dần dần khuyến khích người dân sống chung với lũ, sống chung với mặn. Thách thức hiện nay đó là nhiều khi giải pháp sống chung đó chưa được phát triển một cách đầy đủ. Và như vậy người dân và các cấp chính quyền ở địa phương khá lúng túng khi áp dụng những mô hình cụ thể vào cuộc sống hàng ngày. Ở những tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp vài chục năm trước người ta bao những đê triệt để, không cho nước lũ tràn vào trong mùa mưa, để người ta thâm canh lúa vụ ba nhằm tăng sản lượng lúa. Nhưng sau hàng chục năm sử dụng mô hình đó, bây giờ người ta đã thấy một điều rất rõ là ở những vùng đó gần như đất bị kiệt quệ về dinh dưỡng và người sản xuất phải bón phân ngày càng nhiều. Năng suất lúa thì không tăng bao nhiêu nhưng lượng phân bón phải tăng lên rất cao, do đó lợi nhuận của sản xuất lúa vụ ba này gần như không còn. Người dân ý thức được chuyện đó, chính quyền địa phương và mọi người ý thức được chuyện đó, nhưng bây giờ muốn xả nước trở lại để lấy phù sa, để lấy dinh dưỡng trở lại tự nhiên cho đất, thì đó là một vấn đề không dễ. Trong hàng chục năm qua, vì chúng ta đã giữ mực nước thấp như vậy, thành thử nhà cửa, chuồng trại, vườn tược, thậm chí mồ mả cũng xây thấp lè tè bằng với mực nước. Bây giờ nếu xả nước trở lại thì tất cả những công trình này sẽ bị chìm ngập hết. Và như vậy người dân không đồng thuận mặc dù người ta ý thức rất rõ là bây giờ phải xả nước trở lại để cho đất đai nó màu mỡ trở lại. Chúng ta cũng phải đi từng bước chứ không thể một ngày một buổi mà có giải pháp tổng thể được. Thứ nhất, phải chuyển đổi cách sử dụng đất làm thế nào để bảo đảm được thu nhập cho người dân ổn định hàng tháng, hàng năm chuyển đổi từ sinh kế không lệ thuộc vào nguồn nước sang thích nghi tốt với những nguồn nước. Khi chuyển đổi được những sinh kế cho bà con ở một vùng nào đó rồi đó thì bước tiếp theo  là phải lần lần rút người dân ra khỏi những vùng không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nữa, ví dụ như những vùng bưng biền mà ngày xưa nó ngập rất lâu, khi mùa nước tới là nước nó ngập ba bốn mét. Những vùng này trong bao nhiêu năm qua chúng ta bao đê khô triệt để cho người dân sống trong đó, nhưng mà người ta sống với một tâm thế rất là phập phồng rủi ro, không biết đê bao bị vỡ gây ngập lụt bất cứ lúc nào, tài sản người ta xây dựng hàng chục năm có thể đổ sông đổ biển trong vòng một vài tiếng đồng hồ. Thứ ba là chúng ta cũng phải định hình lại chiến lược phát triển tổng thể của Đồng bằng sông Cửu Long và chiến lược đó phải phân khu vực. Những nơi nào mà bắt buộc chúng ta phải không cho nước nó ngập bất cứ lúc nào, thì những  khu đó, với khoa học công nghệ hiện đại, chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng kiểm soát hoàn toàn mực nước, để không có chuyện ngập tràn lan. Dĩ nhiên là những khu này phải tương xứng với cái trình độ phát triển và phải đóng góp rất  lớn cho nền kinh tế của cả khu vực. Bởi vì đầu tư cho những khu vực này là vô cùng tốn kém và quản lý những khu này lại càng tốn kém hơn nữa. Đó là những khu vực đặc biệt phải ưu tiên, ví dụ như những khu công nghiệp, những nơi có những công trình phúc lợi công cộng như trường học, bệnh viện... Còn lại những khu vực không đóng góp thực sự lớn cho nền kinh tế thì chúng ta phải xem xét từng bước trả nó trở về với thiên nhiên. Khi chúng ta làm được điều đó đó thì tự bản thân cộng đồng đã thích nghi được rồi. Kinh nghiệm của Hà Lan Tiến sĩ Dương Văn Ni nêu ví dụ của Hà Lan, một quốc gia có giàu kinh nghiệm sống với nước, đồng thời có trình độ khoa học kỹ thuật rất cao trong việc xây dựng các đê điều và quản lý đê điều. Tuy nhiên, những năm sau này, họ thấy là cần thấy phải trả lại không gian cho dòng sông, cho nên họ đưa ra một chương trình rất lớn gọi là 'room for the river': Trong những năm mà mưa thuận gió hòa thì người ta vẫn canh tác được trên những vùng đất đó. Nhưng những năm nào mà dự đoán là thời tiết cực đoan, hay có thể xảy ra nước ngập nghiêm trọng, thì những vùng đó được cảnh báo và người ta không canh tác trong vùng đó. Vùng đó trở thành không gian để người ta chứa nước dư thừa của dòng sông. Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, có thể áp dụng kinh nghiệm của Hà Lan cho đồng bằng sông Cửu Long : "Ở đồng bằng sông Cửu Long thật ra có hai vùng rất lớn. Một vùng là ở Tứ Giác Long Xuyên của các tỉnh như Kiên Giang và An Giang. Vùng thứ hai là vùng Đồng Tháp Mười của các tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang. Hai vùng này, trong tự nhiên có thể trữ được khoảng 8 đến 9 tỷ mét khối nước trong mùa mưa. Với khả năng trữ một lượng nước khổng lồ như vậy, chúng ta hoàn toàn không phải lo chuyện ngập úng của những vùng bên dưới. Mấy năm gần đây chúng ta đã biến những vùng này thành những vùng thâm canh nông nghiệp và như vậy là toàn bộ lượng nước thay vì có một không gian để tràn thì bây giờ phải tràn xuống những vùng bên dưới, gây ra ngập lụt thường xuyên, đặc biệt là ngập lụt ở những thành phố mà trong lịch sử chưa từng bị ngập, như Cần Thơ chẳng hạn. Khái niệm 'room for the river' đối với Hà Lan thì dễ làm hơn là vì cộng đồng của họ thưa thớt, họ dễ quy hoạch, dễ tính toán. Còn hiện nay những vùng như Đồng Tháp Mười hoặc Tứ Giác Long Xuyên của chúng ta thì đã có hàng triệu người dân sinh sống và đã ổn định nhà cửa cũng như vườn tược, chuồng trại. Và như vậy việc sử dụng hai vùng này mà tôi gọi là 'room for the delta' là một thách thức rất lớn, cần một nỗ lực rất lớn của toàn xã hội."   "
    --------  
  • Mỹ muốn kéo Việt Nam vào quỹ đạo “bán đồng minh”, Hà Nội vẫn chưa sẵn sàng rời Matxcơva
    “Washington muốn hợp tác chặt chẽ hơn với Việt Nam về mặt quân sự”. Mối quan hệ này được thể hiện qua việc Mỹ chuyển giao ba tàu tuần tra cho Cảnh sát biển Việt Nam (1), năm máy bay huấn luyện T-6C trên tổng số 12 chiếc (2). Một cột mốc quan trọng khác là chuyến công du Hà Nội của bộ trưởng Chiến Tranh Mỹ Pete Hegseth đầu tháng 11/2025. Ông khẳng định “Hoa Kỳ quyết tâm theo đuổi những dự án này và nhiều dự án khác”. Việt Nam giữ vai trò như thế nào trong chiến lược quốc phòng vừa được tổng thống Trump điều chỉnh ngày 05/12, theo đó Trung Quốc vẫn là đối thủ “hàng đầu” của Mỹ ? Liệu Hà Nội có thể tăng cường mối quan hệ quân sự với Washington mà vẫn không tách rời Matxcơva ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu địa-chính trị Laurent Gédéon tại Viện Đông Á (Institut d’Asie orientale), Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), Pháp. RFI : Việt Nam nằm trong số các điểm dừng chân trong chuyến công du châu Á của bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ Pete Hegseth tháng 11/2025. Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh nào ? Laurent Gédéon : Trước hết, cần lưu ý rằng ông Pete Hegseth được coi là một đồng minh thân cận của tổng thống Donald Trump và được biết là người có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc. Ngày 03/11, ông Hegseth kết thúc chuyến thăm Việt Nam kéo dài hai ngày, gặp bộ trưởng Quốc Phòng Phan Văn Giang và cam kết tăng cường quan hệ quốc phòng giữa hai nước. Chuyến thăm này trùng với kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương và hai năm nâng cấp lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện - cấp ngoại giao cao nhất của Việt Nam. Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh ngoại giao tế nhị, được đánh dấu bằng chuyến công du Bắc Triều Tiên của tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm ngày 09/10, dự lễ duyệt binh tại Bình Nhưỡng để kỷ niệm 80 năm thành lập đảng Lao Động Triều Tiên. Dĩ nhiên là chuyến công du đầu tiên của một quan chức cấp cao Việt Nam từ năm 2007 cũng được theo dõi sát sao ở Washington. Đọc thêmViệt Nam : Tổng bí thư Tô Lâm thăm Bắc Triều Tiên, dự lễ 80 năm thành lập đảng Lao Động Việc tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam thăm Bình Nhưỡng có thể được phân tích trên hai cấp độ. Thứ nhất là thể hiện mong muốn của Hà Nội trong việc khôi phục quan hệ với Bình Nhưỡng bị đình trệ vì đại dịch Covid-19, Bắc Triều Tiên gần như đóng cửa hoàn toàn biên giới với du khách nước ngoài. Mặt khác, điều này có thể liên quan đến môi trường địa-chiến lược nhạy cảm ở Đông Nam Á, đặc biệt là liên quan đến Trung Quốc, cũng như sự bất cân xứng quân sự đặc trưng trong mối quan hệ Việt-Trung. Trong bối cảnh này, Hà Nội quan tâm đến các phương pháp hiện đại hóa hệ thống vũ khí Liên Xô do Bắc Triều Tiên phát triển, đặc biệt là không quân, bởi vì Việt Nam cũng được trang bị vũ khí hạng nặng từ Nga hoặc Liên Xô cũ. Mối quan tâm này có thể giải thích sự hiện diện của bộ trưởng Phan Văn Giang. Giả thuyết này càng được củng cố qua việc hai bên đã ký một thỏa thuận hợp tác quốc phòng song phương. Bên cạnh hai yếu tố này, Việt Nam cũng đang định hình là một trung gian tiềm năng nếu đối thoại giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên được nối lại, như trường hợp hồi tháng 02/2019. Lập trường này sẽ giúp Hà Nội có được lợi thế ngoại giao quý giá đối với Washington, đặc biệt là trong giai đoạn quan hệ kinh tế song phương nhạy cảm. Chuyến thăm của bộ trưởng Pete Hegseth, diễn ra trong bối cảnh phức tạp như đã nói ở trên, còn được đánh dấu bởi mong muốn của Hà Nội trong việc tìm kiếm sự cân bằng giữa hợp tác với các bên liên quan trong khu vực, tìm kiếm ảnh hưởng của Mỹ làm đối trọng với Trung Quốc, và duy trì khoảng cách tương đối với Washington mà không cắt đứt quan hệ với Mỹ. RFI : Hoa Kỳ đã tạm dừng viện trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế USAID trên thế giới, yêu cầu các đối tác và đồng minh chi tiêu nhiều hơn cho an ninh của họ. Ngược lại, Washington lại công bố khoản tài trợ mới 130 triệu đô la cho dự án xử lý dioxin tại sân bay Biên Hòa, nâng tổng số viện trợ không hoàn lại lên 430 triệu đô la. Đâu là lý do có thể giải thích cho quyết định này ? Laurent Gédéon : Thông qua quyết định này có thể thấy kết quả của sự hợp tác về các vấn đề hậu chiến, vốn là nền tảng chính trị và biểu tượng thiết yếu trong quan hệ Việt-Mỹ. Năm 1995 khi bình thường hóa quan hệ, hai nước hợp tác trong việc rà phá bom mìn, tìm kiếm hài cốt quân nhân mất tích và tẩy sạch chất dioxin tại các căn cứ không quân cũ bị nhiễm của Mỹ. Vết tích chiến tranh vẫn in hằn đối với cả người Mỹ và người Việt Nam. Việc nêu bật hậu quả về con người và môi trường của các vụ ném bom của quân đội Mỹ ở Việt Nam đã nâng cao nhận thức tại Hoa Kỳ và thúc đẩy mong muốn giải quyết cuộc xung đột này. Bối cảnh này là một trong những yếu tố giải thích cho quyết định tài trợ của Washington. Đọc thêmMỹ - Việt Nam tăng cường hợp tác quân sự Ngoài ra, còn có một lý do khác liên quan đến mong muốn của Washington trong việc thúc đẩy bất cứ việc gì có thể giúp hai nước xích lại gần nhau về mặt chiến lược, cho dù chi phí không phải là nhỏ. Theo quan điểm của các chiến lược gia Mỹ, một Việt Nam trung lập nhưng hòa giải đối với Mỹ, hoặc thậm chí là một Việt Nam đồng minh, là một mục tiêu đặc biệt quan trọng, bởi vì sẽ giúp kiềm chế Trung Quốc. Đây chắc chắn là một trong những lý do cho sáng kiến ​​của Mỹ. RFI : Liệu sự hợp tác về di sản chiến tranh có tạo nền tảng cho mối quan hệ quốc phòng giữa hai nước sâu sắc hơn không ? Việt Nam có thể vận dụng sự hợp tác này như thế nào để phát triển quan hệ với một cựu thù ? Laurent Gédéon : Hợp tác về di sản chiến tranh chắc chắn rất quan trọng để củng cố quan hệ quốc phòng giữa hai nước. Việc này cũng mang ý nghĩa chính trị nội bộ ở Việt Nam. Tại một đất nước mà cuộc chiến vẫn giữ ý nghĩa biểu tượng rất quan trọng đối với người dân, kể cả các thế hệ về sau, sự hợp tác về di sản chiến tranh này mang lại cho chính quyền tính chính danh chính trị cần thiết trong nỗ lực phát triển quan hệ với cựu thù. Tuy nhiên, sự hợp tác này không phải là động lực duy nhất thúc đẩy mối quan hệ Việt-Mỹ. Ngoài di sản chung của chiến tranh, mối quan hệ đó còn được thúc đẩy bởi thực tế cụ thể của bối cảnh địa-chiến lược hiện tại trong khu vực, được đánh dấu bằng sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ riêng thực tế này cũng rất thuận lợi cho việc thúc đẩy các cuộc đàm phán giữa hai nước. Đọc thêmHoa Kỳ muốn hợp tác giúp Việt Nam có đủ vũ khí để tự vệ Các cuộc đàm về việc mua 24 chiến đấu cơ F-16, được tiết lộ ngày 22/04, cũng phải được đặt trong bối cảnh này. Mặc dù khởi đầu đầy hứa hẹn nhưng thỏa thuận lại không tiến triển trong chuyến thăm Hà Nội của bộ trưởng Pete Hegseth. Tuy nhiên, thất bại này không liên quan - hoặc chỉ liên quan tối thiểu - đến vấn đề ký ức lịch sử và di sản chiến tranh như vừa đề cập ở trên. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng còn có những yếu tố tác động khác. Thật vậy, cần phải nói là song song với đàm phán Việt-Mỹ, nhiều cuộc đàm phán khác cũng diễn ra giữa Hà Nội và Matxcơva để Việt Nam mua chiến đấu cơ của Nga. Báo New York Times đưa tin vào ngày 27/10 rằng Hà Nội đã đặt mua vũ khí Nga trị giá 8 tỷ đô la, trong đó có 40 chiến đấu cơ Su-35 và Su-30. Nếu được xác nhận, hợp đồng này chứng minh hai điều : Thứ nhất, sự xích lại gần nhau ngày càng sâu sắc giữa Hà Nội và Matxcơva, và thứ hai, những thắc mắc của Việt Nam liên quan đến mức độ tin cậy lâu dài của Mỹ. Tuy nhiên, vì Washington hiểu rằng Việt Nam đã tăng cường quân sự đáng kể trong những năm gần đây, với ngân sách quốc phòng hiện chiếm gần 2% GDP, cho nên rất có thể Mỹ sẽ tiếp tục nỗ lực xích lại gần hơn bằng cách dựa vào những nền tảng được đặt ra trong hợp tác song phương về di sản chiến tranh, cũng như những chương trình hợp tác khác. RFI : Trong cuộc đối thoại ngày 02/11, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn Mỹ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quốc phòng và chia sẻ kinh nghiệm về an ninh mạng. Đâu là mục đích của Việt Nam trong việc này ? Laurent Gédéon : Đây là điểm đáng chú ý, bởi vì từ một năm nay, Việt Nam giữ vị thế nổi bật trong lĩnh vực an ninh mạng. Ngày 24/12/2024, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua Công ước Liên Hiệp Quốc về Chống Tội phạm Mạng và chỉ định Hà Nội là địa điểm tổ chức ký kết. Lễ mở ký Công ước Hà Nội được tổ chức ngày 25 và 26/10/2025. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hợp tác quốc tế về an ninh mạng, đồng thời phản ánh tầm quan trọng đặc biệt cho ngành ngoại giao Việt Nam. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, thiệt hại kinh tế hàng năm trên quy mô toàn cầu do tội phạm mạng dự kiến ​​vượt quá 10.000 tỷ đô la Mỹ vào năm 2025, với hàng triệu cuộc tấn công mạng xảy ra mỗi ngày. Đọc thêmHơn 60 nước ký kết Công ước chống Tội phạm Mạng tại Hà Nội, nhiều tập đoàn kỹ thuật số tẩy chay Tại Việt Nam, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới, tội phạm mạng ngày càng gia tăng về quy mô và tính chất phức tạp về bản chất, cũng như tác động. Theo thiếu tướng Lê Xuân Minh, cục trưởng Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm mạng, bộ Công An, năm 2024 đã xảy ra hơn 100.000 sự cố an ninh mạng. Tội phạm mạng chuyển hướng từ các cuộc tấn công đơn lẻ, quy mô nhỏ sang hoạt động xuyên quốc gia được tổ chức bài bản, nhắm vào các hệ thống quốc gia trọng yếu và các doanh nghiệp kinh tế lớn. Đầu tháng 12/2025, bộ Công An cũng đã cảnh báo về sự gia tăng nhanh chóng của các video và hình ảnh được AI tạo ra sau trận lũ lụt ở miền Trung Việt Nam một tuần trước đó. Rõ ràng đây là vấn đề dân sự. Nhưng vì có tính chất hỗn hợp, những vấn đề này thường đan xen giữa lĩnh vực dân sự và quân sự, hoặc thậm chí là an ninh dân sự và quốc phòng. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ - quốc gia sở hữu một trong những chuyên môn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này - rõ ràng có thể hỗ trợ Việt Nam, nếu Hà Nội yêu cầu, dưới hình thức đào tạo chuyên gia, cung cấp chuyên gia, chia sẻ dữ liệu số, xây dựng năng lực, thậm chí là hội nhập vào các mạng lưới quốc tế. Tuy nhiên, để đi xa hơn trong quá trình hợp tác này, ví dụ, liên quan đến việc chia sẻ kinh nghiệm từ xung đột Ukraina, có lẽ Việt Nam sẽ phải thay đổi triệt để các ưu tiên chiến lược và ngoại giao, trong đó có việc Hà Nội có thể sẽ phải tách khỏi Matxcơva và xích lại gần Washington, điều này sẽ đưa Việt Nam vào quỹ đạo đồng minh hoặc bán đồng minh của Mỹ. Nhưng đó sẽ là sự thay đổi mô hình mà Hà Nội có lẽ chưa sẵn sàng vào thời điểm này, cho dù được Washington khuyến khích. Do đó, hợp tác Mỹ-Việt trong lĩnh vực an ninh mạng nhiều khả năng sẽ vẫn ở mức độ hạn chế. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu địa-chính trị Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), Pháp. (1) Hoa Kỳ mở rộng hợp tác quốc phòng Hoa Kỳ - Việt Nam với việc bàn giao máy bay huấn luyện T-6C (2) Hoa Kỳ chuyển giao tàu tuần tra thứ ba cho Cảnh sát Biển Việt Nam nhân kỉ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao
    --------  
  • Để giảm ô nhiễm không khí, Việt Nam có “quyết liệt” loại được xe máy xăng, bắt đầu từ Hà Nội?
    “Hà Nội quá ô nhiễm! Không khí quá dầy đặc, toàn khói xe và toàn mùi xăng. Mọi người rất vất vả vì mùi xăng và khói xe, nhất là giờ tan tầm, người ta sẽ ngạt thở”. Đó là cảm nhận của một người dân Hà Nội năm 2017. Đến đầu năm 2025, Hà Nội nhiều lần đứng đầu danh sách thành phố ô nhiễm nhất thế giới, nhiều ngày không thấy mặt trời. Nguyên nhân chủ yếu là xe máy phát thải 87% khí CO2 và 66% bụi mịn, theo một nghiên cứu năm 2023. Hàng năm, khoảng 70.000 người chết vì ô nhiễm không khí ở Việt Nam, theo đánh giá của Tổ Chức Y Tế Thế Giới năm 2024. Cải thiện bầu không khí, giảm ô nhiễm môi trường trở thành vấn đề vô cùng cấp bách đối với Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội. Từ ngày 01/07/2026, xe máy chạy xăng dầu sẽ bị cấm hoạt động ở vành đai 1 (trung tâm) Hà Nội, theo chủ trương được thông báo ngày 04/07/2017. Đây là bước đầu trong lộ trình chuyển sang xe điện, bắt đầu từ Hà Nội, tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh, hai đô thị lớn lần lượt có 7 triệu và 8,5 triệu xe máy.  Trả lời AP ngày 20/10/2025, bà Dương Tử Phi (Zifei Yang), giám đốc Chương trình Xe khách tại Hội đồng Quốc tế về Giao thông sạch (International Council on Clean Transportation) nhắc lại : “Xe điện hai bánh sạch hơn nhiều, về cơ bản là không hề có khí thải từ ống xả. Và chỉ cần xét đến việc rất nhiều xe điện được sử dụng ở trung tâm thành phố và mọi người tiếp xúc với không khí, đã thấy việc này sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng không khí tại địa phương. Nó làm giảm khí nitơ ôxit (Nox), giảm bụi mịn (PM). Những yếu tố này rất quan trọng đối với khu vực đô thị. Hơn nữa, xe máy điện còn tiết kiếm nhiên liệu hơn”.  Đọc thêm9 triệu người chết mỗi năm vì ô nhiễm môi trường, nhiều hơn bệnh tật, khủng bố và chiến tranh Lộ trình ba chặng ở Hà Nội Quá trình “xanh hóa” phương tiện giao thông ở Hà Nội được chia làm ba chặng : Từ ngày 01/07/2026, Hà Nội sẽ cấm xe máy chạy xăng dầu trong khu vực Vành đai 1, mở rộng phạm vi ra Vành đai 2 từ ngày 01/01/2028 và tiến tới Vành đai 3 vào năm 2030. Nhìn chung, người dân đều muốn một môi trường trong lành vì chính sức khỏe của bản thân, như trường hợp một khách hàng mua xe đạp điện : “Nhà nước đang có chính sách để bảo vệ môi trường, nhất là ở khu vực trung tâm Hà Nội. Tôi đã tìm hiểu một số mẫu xe đạp điện của nhiều thương hiệu tại Việt Nam và tôi quyết định sẽ lựa chọn một hãng để mua một chiếc, không chỉ vì môi trường mà còn vì tiết kiệm chi phí cho bản thân”. Đọc thêm“Xanh hóa” giao thông Hà Nội: Cần bỏ ôtô cá nhân thể hiện “thành đạt” và kết nối hệ thống công cộng Hà Nội dự kiến hỗ trợ mỗi người dân 3 triệu đồng để chuyển đổi xe máy xăng sang xe điện (có giá trị từ 15 triệu đồng trở lên và phải đăng ký trước thời điểm nghị quyết có hiệu lực) và 4 triệu đồng/xe đối với hộ cận nghèo ; 5 triệu đồng/xe đối với hộ nghèo. Mỗi cá nhân được hỗ trợ tối đa 1 xe đến hết năm 2030. Thành phố Hồ Chí Minh cũng có kế hoạch “xanh hóa” phương tiện giao thông, với tham vọng thay thế 400.000 xe máy chạy xăng bằng xe điện cho đến năm 2028, bắt đầu bằng lệnh cấm sử dụng xe máy chạy xăng để gọi xe và giao hàng ngay năm 2026. Thành phố sẽ cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp, giảm thuế và thiết lập các khu vực phát thải thấp để hạn chế ô nhiễm. Một quyết định “quyết liệt” khác nhằm cải thiện môi trường là ngay từ ngày 01/07/2027, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ áp dụng quy chuẩn khí thải đối với xe mô tô, xe gắn máy. Hà Nội sẽ phân vùng phát thải thấp, áp dụng nhiều biện pháp hạn chế giao thông, trong đó có cấm lưu thông xe tải hạng nặng chạy bằng dầu diesel… Các đô thị lớn khác như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Huế triển khai từ ngày 01/07/2028, còn các tỉnh, thành khác sẽ áp dụng từ ngày 01/07/2030. Bộ Giao Thông Vận Tải Việt Nam đặt mục tiêu 1/3 ô tô và hơn 1/5 xe máy sẽ chạy bằng điện đến năm 2030. Quyết định nhanh, thời hạn ngắn gây hỗn loạn hậu cần và xã hội ? Hà Nội “cần những biện pháp nghiêm ngặt để giải quyết ô nhiễm môi trường”, theo phát biểu vào tháng 07/2025 của ông Dương Đức Tuấn, khi đó là phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, thông báo đột ngột và việc triển khai trong thời hạn ngắn khiến không ít người dân lo lắng, đặc biệt là những người lao động sống nhờ xe máy. Đổi sang xe điện là cả một khoản ngân sách lớn, không phải ai cũng sẵn có, như anh Trần Văn Thanh, lái xe ôm : “Tôi không có kinh tế nhiều để đổi sang xe điện nên vẫn phải chạy xe này (chạy xăng) thôi. Chạy xe này, tôi sẽ phải lựa cuốc, lựa những chuyến chạy ngoại thành. Chứ bây giờ không có kinh tế để đổi xe mới nên cũng chịu”. Đối với một số người dân, được báo Tuổi Trẻ trích dẫn ngày 18/07, mức hỗ trợ 3 triệu đồng là “quá ít”. Đọc thêmCấm xe máy chạy xăng ở Việt Nam: Nhật Bản cảnh báo thất nghiệp hàng loạt và kêu gọi « chuyển đổi có lộ trình » Về phía các nhà sản xuất xe máy lớn nhất ở Việt Nam, như Honda và Yamaha, họ cho rằng mốc thời gian năm 2026 là quá tham vọng. Theo hãng tin Anh Reuters ngày 21/10, đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội đã gửi thư đến các cơ quan chức năng Việt Nam đề nghị xem xét một “lộ trình phù hợp” cho quá trình chuyển sang xe chạy điện vì lệnh cấm đột ngột này có thể “ảnh hưởng đến việc làm trong các ngành công nghiệp hỗ trợ”, như đại lý xe máy và nhà cung cấp phụ tùng.  Xe máy Honda chiếm 80% thị trường tại Việt Nam với 2,6 triệu xe bán ra trong năm 2024. Tập đoàn của Nhật Bản rất thận trọng trong việc tiếp cận xe điện và chỉ mới bắt đầu bán xe đạp điện trong năm 2025, một phần vì nhu cầu người dùng xe xăng vẫn rất lớn. Yamaha bám sát với khoảng 17% thị phần. Theo các nguồn tin của Reuters, chính Honda dẫn đầu nỗ lực kiến nghị chính phủ xem xét lại chỉ thị. Hiện có 4 nhà máy ở Việt Nam, chủ yếu sản xuất xe xăng và chỉ có một vài mẫu xe điện, Honda có thể xem xét thu hẹp quy mô sản xuất. Các cửa hàng cho thuê, đại lý bán xe cũng sẽ phải thay đổi mô hình hoạt động, như chia sẻ của Cao Bảo Ngọc, chủ cửa hàng cho thuê xe máy, với hãng tin Mỹ AP : “Khi lệnh cấm được ban hành, đó là một thay đổi lớn và ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của chúng tôi. Chúng tôi đã cân nhắc kế hoạch cho cửa hàng trong tương lai. Nhưng tôi nghĩ sự thay đổi này là cần thiết để Hà Nội sạch hơn, tốt hơn cho sức khỏe của mọi người. Đây cũng là một động thái tốt, có lợi cho du lịch Việt Nam”. Nước tiên phong ở Đông Nam Á nếu thực hiện được tham vọng Theo trang Mordor Intelligence, thị trường xe hai bánh Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất thế giới, có trị giá ước tính 4,6 tỉ đô la trong năm 2025. Một số chuyên gia cho rằng việc Việt Nam hạn chế xe xăng có thể sẽ gây ra nhiều biến động tiêu cực. Tuy nhiên, phải nói rằng thị trường xe máy điện tại Việt Nam đã hình thành từ khá lâu, ban đầu là các dòng xe nhập khẩu hoặc lắp ráp trong nước, với linh kiện chủ yếu từ Trung Quốc. Sau đó, thị trường trở nên chuyên nghiệp hơn với sự xuất hiện của nhiều thương hiệu nội địa, như VinFast hoặc Dat Bike. Những công ty này cũng như nhà sản xuất xe máy điện Trung Quốc Yadea lại đang đặt cược vào một tương lai xe điện ở Việt Nam. Với khoảng 3,5 triệu chiếc mỗi năm, Việt Nam là thị trường xe máy lớn thứ hai ở Đông Nam Á. Riêng về xe điện hai bánh, Việt Nam là thị trường lớn thứ ba ở châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, mặc dù xe máy điện hiện chiếm khoảng 12% tổng doanh số. Bà Dương Tử Phi, thuộc Hội đồng Quốc tế về Giao thông sạch, cũng cho rằng đây là một cơ hội cho các nhà sản xuất Việt Nam, bởi vì không giống như thị trường ô tô, xe máy bán ở Việt Nam được sản xuất trong nước. Việc này có nghĩa là chuyển sang xe máy điện có thể cổ vũ các nhà sản xuất trong nước, thúc đẩy khởi nghiệp và thu hút đầu tư mới. Quá trình chuyển đổi của Việt Nam cũng có thể định hình các thị trường đang phát triển khác. Ông Nguyễn Tấn Long, giám đốc tiếp thị của Dat Bike, cho biết : “Dat Bike hy vọng chính phủ sẽ có các chính sách hỗ trợ các nhà sản xuất xe máy điện như giảm tiền thuê đất sản xuất, giảm thuế nhập khẩu linh kiện xe máy điện và hỗ trợ nghiên cứu, phát triển công nghệ mới cho xe điện tốt hơn”. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Dù sao doanh số bán xe máy điện đã tăng vọt kể tư khi lệnh cấm được công bố, theo MotorcyclesData, được AP trích dẫn ngày 20/10. Doanh số xe máy cỡ nhỏ tăng 89% và xe máy cỡ lớn tăng 197% trong tám tháng đầu năm 2025. VinFast dẫn đầu với doanh số tăng hơn gấp 4 lần, vượt xa Yadea của Trung Quốc và các đối thủ nội địa khác. Hiện tại, VinFast đã có đội xe taxi riêng và cung cấp xe cho nhiều hãng đối tác khác. Ngày 30/10/2025, công ty khởi nghiệp Dat Bike và xe công nghệ Grab ký thỏa thuận hợp tác “để triển khai các dự án khuyến khích, hỗ trợ đối tác tài xế Grab tiếp cận và chuyển đổi sang xe máy điện… Hai bên cũng đặt trọng tâm phối hợp xây dựng hệ sinh thái xe điện hỗ trợ bền vững cho tài xế công nghệ”. Các nhà sản xuất xe máy điện đua nhau thiết lập trạm đổi pin để giải quyết mối lo ngại của người tiêu dùng về sự an toàn và tiện lợi của việc sạc pin. Honda thí điểm mô hình đổi pin cho người thuê mẫu xe máy điện Honda CUV e. TMT Motors triển khai hệ thống trạm đổi pin cho cả ô tô điện và xe máy điện trên phạm vi toàn quốc. VinFast có kế hoạch xây dựng 150.000 trạm đổi pin tại tất cả các địa phương trong vòng 3 năm tới, trong đó có 50.000 trạm từ giờ đến cuối năm 2025. Theo trang Thanh Niên, hệ thống đổi pin của Selex Motors được lập ở nhiều tỉnh, thành cho phép người dùng thao tác đổi pin chỉ trong 2 phút. Thương hiệu Việt này còn phát triển pin “đại trà” tương thích với nhiều mẫu xe, để người dùng của các hãng khác như DK Bike hay Evgo có thể cùng chia sẻ hệ sinh thái. Thói quen bỏ xe xăng chuyển sang xe điện của đa số người dùng mới là thách thức, rào cản lớn nhất. Về mặt cơ sở và kỹ thuật, một nhà lãnh đạo của Dat Bike, được trang CafeF trích dẫn, cho rằng “Việt Nam đang ở vị trí rất thuận lợi để dẫn đầu xu hướng xe máy điện tại Đông Nam Á. Sự hỗ trợ từ chính phủ sẽ càng củng cố vị thế này trong tương lai”. Song song với giải pháp xe điện, tăng cường kiểm tra kỹ thuật xe, lập các khu vực phát thải thấp ở trung tâm thành phố, Tổ Chức Y Tế Thế Giới cũng khuyến cáo Việt Nam cổ vũ cho phương tiện công cộng để giảm tình trạng ô nhiễm do giao thông. Đọc thêmMoov’Hanoi : Đưa giao thông công cộng thành phương thức di chuyển hấp dẫn ở Hà Nội
    --------  
  • Ma túy tổng hợp: Việt Nam đối phó với các đường dây buôn lậu từ Tam Giác Vàng
    Theo báo cáo do Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) công bố vào tháng 5 vừa qua, hoạt động sản xuất và buôn bán trái phép ma túy tổng hợp từ khu vực Tam giác Vàng ( khu vực nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Miến Điện ) đã tăng gấp bội. Là quốc gia có đường biên giới chung với Lào, một trong 3 quốc gia của khu Tam Giác Vàng, Việt Nam đang phải đối phó với ngày càng nhiều đường dây buôn lậu ma túy tổng hợp từ nước láng giềng.  Trả lời RFI Việt ngữ ngày 15/09/2025, nhà tội phạm học Lương Thanh Hải, giảng viên Trường Tư pháp hình sự và tội phạm học Griffith, Úc, và là chủ tịch Hội đồng nghiên cứu về tội phạm ma túy tại châu Á của Viện nghiên cứu AICS (Hoa Kỳ), trước hết nêu lên những tuyến đường mà ma túy tổng hợp xâm nhập vào Việt Nam : Lương Thanh Hải: Đến nay, việc thẩm lậu ma túy từ khu vực Tam Giác Vàng vào Việt Nam trải đều trên cả ba tuyến chính, đó là đường bộ, đường hàng không và đường biển. Việt Nam may mắn là không nằm trực tiếp trong vòng xoáy của Tam Giác Vàng. Thế nhưng Việt Nam lại là hàng xóm, chia sẻ đường biên trực tiếp với nước Lào, một trong ba nước của khu vực Tam Giác Vàng. Thành thử điều không tránh khỏi được là việc thẩm lậu ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp, vào Việt Nam trải đều cả ba tuyến, đặc biệt là tuyến đường bộ. Báo cáo mới đây nhất của Liên Hiệp Quốc vào tháng 5 vẫn sử dụng các tài liệu của 63 tỉnh thành. Cho nên tôi cũng theo cái thói quen đó tạm thời đề cập đến các tỉnh trước ngày 01/07 năm nay, khi Việt Nam giảm xuống còn 34 tỉnh thành. Tôi lấy ví dụ đường biên giới Việt Nam và Lào, đặc biệt là các cái cửa khẩu Cầu Treo của Hà Tĩnh, Cha Lo của Quảng Bình và Lao Bảo của Quảng Trị, những vùng rất nóng bỏng, hoặc là tuyến Tây Bắc thì có những khu vực đặc biệt nóng bỏng ở Lóng Luông, Mộc Châu, Sơn La, hay là ở Lạng Sơn, vân vân... Các trục đường biên giới giữa Việt Nam và Lào là một trong những điểm nóng mà Cục cảnh sát phòng chống ma túy của Bộ Công an Việt Nam đã đưa vào tầm ngắm không chỉ bây giờ, mà từ rất lâu. Ngoài ra, tuyến biên giới Việt Nam - Cam Bốt cũng vậy. Ở các đường biên giữa hai nước như Tây Ninh, An Giang, Long An, giới buôn ma túy cũng lợi dụng các hoạt động thương mại, du lịch và vận tải đường bộ. Có thể nói rằng trên đường bộ, ngoài các khu vực cửa khẩu mà tôi có nhấn mạnh, với một đường biên giới trải dài tổng cộng hơn 3000 km tiếp giáp giữa Việt Nam, Lào, Cam Bốt, giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì có thể nói rằng có rất nhiều đường mòn, lối mở. Lực lượng bộ đội biên phòng cũng như cảnh sát phòng chống ma túy của Việt Nam mặc dù đã chủ động và đã bố trí nhiều điểm chốt nhưng cũng không xuể được. Có thể nói nguồn nhân lực không thể kham hết được. RFI: Như vậy thì giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Cam Bốt, Trung Quốc, các lực lượng thực thi pháp luật có phối hợp với nhau để ngăn chận những đường dây đó? Lương Thanh Hải: Đó cũng là một trong những khía cạnh rất đáng ghi nhận. Nói gì thì nói, việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng có những tiến triển nhất định. Điều này đã được Ủy ban phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hiệp Quốc UNODC ghi nhận. Một điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó chính là mô hình hợp tác song phương đường biên, mà chúng tôi hay gọi là Border Liaison Office, tức là việc bố trí song song lực lượng thực thi pháp luật của cả hai nước, bao gồm cảnh sát, biên phòng, hải quan, vân vân. Hai bên sẽ chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, phối hợp các chuyên án để cùng nhau đánh sập các đường dây ma túy thẩm lậu giữa các nước với nhau.  Tuy nhiên, thành công trong các chuyên án phối hợp song phương hoặc đa phương cũng chỉ dừng lại góc độ chừng mực nhất định. Việc thực thi pháp luật vẫn đang còn những hạn chế, bởi vì thứ nhất, có sự khác biệt về mặt luật pháp. Đôi khi việc bắt và đánh sập một đường dây ma túy sau đó còn liên quan đến việc truy tố, xét xử và thi hành án, thậm chí là có dẫn độ hay không? Tất cả những câu hỏi đó, những rào cản đó cũng góp phần làm cản trở hiệu quả mang tính chất bền vững trong hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.  Ngoài cái đầu tiên đó là đường mòn, như tôi nói, rất phức tạp, có thể là điểm nóng nhất, thì đường biển cũng vậy. Đặc biệt trong giai đoạn Covid thì hầu hết đường biên giới của các nước đều đóng cả. Chính vì vậy, giai đoạn từ 2021 cho đến 2023 có thể nói là giai đoạn bùng nổ, không chỉ đối với Việt Nam hay ba nước khu vực Tam Giác Vàng, mà kể cả là Úc, Nhật hay Trung Quốc, kể cả Nam Mỹ, tất cả các hoạt động buôn bán vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp đều tận dụng đường biển rất nhiều. Cho nên khu vực eo biển nằm ở Vịnh Thái Lan và đi qua eo biển Malacca có thể nói cũng là một trong những đường biển mà Việt Nam cần phải tập trung để hạn chế tối đa. Ngoài đường bộ và  đường biển, đường hàng không và bưu kiện có thể nói cũng là một trong những hướng thẩm lậu ma túy nổi lên trong nhiều năm trở lại đây đối với Việt Nam, mà lực lượng thực thi pháp luật cũng đã ít nhiều có những thành công nhất định và đã phá được nhiều chuyên án liên quan vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp bằng đường hàng không và bưu kiện vào Việt Nam.  RFI: Với lượng bưu kiện nhập vào Việt Nam rất là lớn thì làm sao các cơ quan chức năng có thể kiểm tra để mà phát hiện được ma túy tổng hợp giấu trong những bưu kiện đó? Lương Thanh Hải: Đây là một trong những vấn đề rất là đau đầu và cũng là một trong những cái khó, bởi vì thứ nhất nó liên quan đến chính sách, pháp luật về kiểm soát và giám sát hàng hóa của từng nước. Việt Nam cũng vậy, không tránh khỏi những vướng mắc và khó khăn. Chẳng hạn về phương tiện trang thiết bị cho các lực lượng thực thi pháp luật, không phải cơ quan nào cũng đều được trang bị một cách tối tân nhất như ở các nước phương Tây. Đó cũng là một hạn chế làm giảm thiểu khả năng phát hiện đối với lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam đối với các đối tượng vận chuyển ma túy qua đường hàng không, hoặc là đường bưu kiện. Ngoài ra, những phương thức, thủ đoạn của các đối tượng vận chuyển ngày càng tinh vi hơn, không chỉ là giấu trong vali hay các vật dụng, vân vân. Có nhiều đối tượng còn nuốt vào trong bụng và thậm chí còn phẫu thuật để nhét vào các bộ phận của cơ thể, vân vân... Tất cả những điều đó đặt ra những thách thức và đòi hỏi các lực lượng thực thi pháp luật phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ, cùng với việc sử dụng phối hợp các trang thiết bị. Hiện nay, đối với Việt Nam thì Cảnh sát Liên bang Úc AFP cũng hỗ trợ rất nhiều cả về vật chất lẫn chương trình đào tạo, hỗ trợ về trang thiết bị. Ở góc độ nhà nghiên cứu và cũng là người thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa lực lượng thực thi pháp luật Úc và Việt Nam, tôi hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều hỗ trợ về trang thiết bị tối tân hơn. Ví dụ như các máy tia hồng ngoại có thể rà soát các loại chất ma túy qua đường bưu kiện và đường hàng không, hoặc là có thể có các khóa huấn luyện chuyên sâu đặc biệt đối với các detective dog, chó nghiệp vụ, để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình điều tra, phát hiện và suy xét các chuyên án ma túy liên quan đến đường hàng không. RFI: Cũng nói về hợp tác giữa Việt Nam với Úc, bây giờ có những đường dây vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam sang Úc, chắc là qua đường hàng không nhiều hơn, hay không? Như vậy hai nước phối hợp như thế nào để ngăn chặn những đường dây đó?  Đúng vậy. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, so với các nước khác, việc vận chuyển từ Việt Nam trực tiếp sang Úc thì số lượng không đáng kể. Theo báo cáo hàng năm của Ủy ban nghiên cứu về tội phạm và ma túy của Úc, hầu hết các đối tượng vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam qua Úc với số lượng vừa phải, nhỏ lẻ. Tức là nếu căn cứ theo định lượng tội danh của khung hình sự thì nó cũng ít nghiêm trọng, chứ không phải là hàng tạ hay hàng tấn, như khối lượng từ Tam Giác Vàng thẩm lậu vào Việt Nam. Các đối tượng vận chuyển như vậy thì rơi vào các nhóm thứ yếu, có thể là những du học sinh, những người lớn tuổi, những người nhẹ dạ cả tin cầm hành lý hộ, vân vân. Tuy nhiên, ở góc độ về thực thi pháp luật, hợp tác giữa Cảnh sát Liên bang Úc AFP và cảnh sát Việt Nam khá chặt chẽ, bởi vì AFP là một trong những lực lượng thực thi pháp luật triển khai khá sớm con người cụ thể ở đại sứ quán ở Hà Nội cũng như lãnh sự quán ở thành phố Hồ Chí Minh . Mô hình thành lập trung tâm phòng chống tội phạm xuyên quốc gia Việt - Úc có thể nói là một trong những mô hình đầu tiên mà một lực lượng cảnh sát ngoài Việt Nam, cụ thể là Úc, phối hợp cùng Tổng cục Cảnh sát trước đây, bây giờ là văn phòng cơ quan điều tra phụ trách. Cả hai bên đã phối hợp và xây dựng và đặt tại trụ sở thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm phòng chống tội phạm xâm quốc gia này hoạt động khá hiệu quả, là nơi trung chuyển, cung cấp, trao đổi thông tin, cả thông tin tình báo lẫn thông tin về các loại tội phạm, đặc biệt là về ma túy, để giúp  lực lượng thực thi pháp luật cả hai nước có cơ sở để triển khai các hoạt động phòng chống hiệu quả.
    --------  
  • 2026 : Bối cảnh quốc tế không thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng 10% của Việt Nam
    Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2026 đạt 10% trở lên “để tạo đà, tạo lực, tạo thế cho tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo, GDP đầu người đạt 5.500 đô la” (1). Đây là hai trong số 15 chỉ tiêu về kinh tế-xã hội trong kế hoạch dự kiến năm 2026 để đạt hai mục tiêu 100 năm đã đề ra : Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Ngày 19/10/2025, thủ tướng Phạm Minh Chính thừa nhận mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số những năm tới là không dễ đạt được, nhưng không thể không làm. Chính phủ duy trì mức tăng trưởng 8% cho năm 2025 (thấp hơn so với dự báo hồi đầu năm) nhờ vào việc “nền kinh tế Việt Nam đã chứng minh được khả năng phục hồi bất chấp những cú sốc bên ngoài”. Tuy nhiên, các định chế tài chính, ngân hàng quốc tế đưa ra mức thẩm định thấp hơn : từ 6,5% đến 6,7%. Chính phủ xác định phải thay đổi mô hình kinh tế, hiện vẫn dựa vào gia công, nhập khẩu và mô hình tăng trưởng, chủ yếu đến từ vốn, lao động (2). Tuy nhiên, những thay đổi này liệu có thể mang lại kết quả ngay năm 2026 để góp phần cho mục tiêu tăng trưởng 10% ? Tăng trưởng của Việt Nam vẫn phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu, đặc biệt là thị trường Mỹ, mức thuế hải quan 20% áp dụng đối với hàng hóa của Việt Nam, cũng như những xáo trộn trên thế giới do thuế đối ứng của Mỹ, sẽ tiếp tục tác động như thế nào đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 2026 ? Ông Hubert Testard, chuyên gia về châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, tổng biên tập báo mạng Asialyst chuyên về châu Á, chia sẻ một số nhận định với RFI Tiếng Việt. RFI : Chính phủ Việt Nam đưa ra dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 là 8%. Vào tháng 9, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra dự báo là khoảng 6,7%, còn Ngân hàng Thế giới là 6,6%, Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 6,5%. Có thể thấy sự khác biệt rất rõ giữa những mức dự báo này. Liệu chúng ta có thể lạc quan về dự báo được chính phủ Việt Nam đưa ra không ? Hubert Testard : Đúng là có sự khác biệt giữa dự báo chính thức của chính phủ Việt Nam, khá là lạc quan cho năm 2025, và dự báo của các tổ chức quốc tế. Sự khác biệt này có thể là do những gì xuất hiện trong báo cáo của các tổ chức quốc tế thường dựa trên dữ liệu chậm hơn ngày công bố từ một đến hai tháng. Ví dụ, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế - IMF vừa công bố báo cáo thường niên vào ngày 15/10, nhưng dữ liệu đối với Việt Nam có lẽ là những dữ liệu dừng lại vào cuối tháng 8. Vấn đề ở chỗ là Việt Nam đã ghi nhận kết quả quý III rất tốt, với mức tăng trưởng hơn 8% một chút. Và đó là lý do khiến chính phủ Việt Nam lạc quan về tăng trưởng cả năm. Nhưng chúng ta biết rằng quý IV sẽ ít khả quan hơn vì áp lực từ thuế quan của Mỹ. Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong quý I đã rất tốt vì các nhà xuất khẩu lường trước được những vấn đề này và do đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng gần 30% trong nửa đầu năm. Nhưng rõ ràng, giờ đây mọi chuyện không thể như cũ được nữa và sẽ có tác động trong quý IV. Đọc thêmMỹ-Việt công bố tuyên bố chung về thỏa thuận khung thương mại, Hà Nội vẫn chịu mức thuế quan 20% Nhưng vì kết quả quý III rất tốt, tôi nghĩ rằng nhìn chung, kết quả cả năm sẽ không chênh lệch quá nhiều so với dự báo của chính phủ. Tôi nghĩ con số này sẽ tốt hơn so với những gì Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế hoặc Ngân Hàng Thế Giới dự báo trong số liệu chính thức hiện nay của họ. Theo tôi, kết quả sẽ đạt trên 7% trong năm nay. RFI : Ngày 20/10, thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh “kinh tế Việt Nam khẳng định đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, tăng trưởng cao hàng đầu thế giới”. Liệu điều này có thể giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng 10% cho năm 2026 ? Hubert Testard : Mức 10% vào năm 2026, trái lại, lại quá lạc quan, rất tham vọng. Và theo tôi, có lẽ không thể đạt được đối với Việt Nam, bởi vì bối cảnh quốc tế trong năm 2026 sẽ bớt thuận lợi hơn nhiều. Trước tiên là mức thuế quan trung bình 20% của Mỹ mà ai cũng biết, nhưng cũng phải kể đến nhiều mức thuế đặc biệt khác đối với ô tô, thép, nhôm. Gần đây, còn có một vấn đề khác đối với các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam, với thông báo ngừng xuất khẩu một số mặt hàng vào năm 2026. Tất cả những điểm này sẽ có tác động nhất định. Ngoài ra, bối cảnh chung ở một số nước khác cũng không đặc biệt hơn. Nghĩa là, nhu cầu của Trung Quốc không mạnh lắm, châu Âu đang cố gắng hạn chế dòng hàng nhập khẩu từ châu Á, đặc biệt là từ Trung Quốc. Vì vậy, bối cảnh quốc tế sẽ kém thuận lợi hơn. Tất cả các tổ chức quốc tế đều dự đoán năm 2026 sẽ có mức tăng trưởng kém hơn một chút so với năm 2025. Vì vậy, việc đạt được 10% trong bối cảnh này, đối với tôi, là không được khả thi lắm. RFI : Ông vừa nhắc đến mức thuế 20% của Mỹ, khả năng thủy sản Việt Nam không được xuất khẩu sang Mỹ năm 2026… những biện pháp này có tác động đến GDP của Việt Nam không trong khi năm 2024, xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 30% GDP của Việt Nam ? Hubert Testard : Có, chắc chắn là có. Đã có những đánh giá về tác động này, nhưng chúng ta hãy chờ xem tác động thực sự như thế nào. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế - IMF, tác động của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Mỹ gây thiệt hại ít nhất là khoảng 0,5 đến 0,7% GDP cho Việt Nam. Đó là một cú sốc đáng kể và có thể bù đắp được nếu Việt Nam thúc đẩy nhiều hơn nhu cầu nội địa và đa dạng hóa trao đổi thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đây vẫn là một cú sốc tiềm tàng khá mạnh. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cũng ước tính xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể giảm 20%. Tôi thấy con số này hơi quá. Nhưng rõ ràng là vẫn sẽ có một cú sốc rất lớn, cho nên Việt Nam sẽ phải bù đắp cú sốc này bằng nhiều biện pháp khác nhau trên thị trường nội địa cũng như đa dạng hóa trao đổi thương mại. Đọc thêmViệt Nam : “Bạn” hay “thù” trong chính sách đánh thuế của Trump ? RFI : Mô hình tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đầu tư công và xuất khẩu, chủ yếu từ các nhà đầu tư nước ngoài. Liệu mô hình này có còn phù hợp trong tương lai ? Hubert Testard : Rõ ràng là phải thay đổi mô hình này. Đó là điều mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCDE) khuyến nghị trong báo cáo tháng 06/2025 về Việt Nam. Tổ chức này đưa ra một loạt đề xuất để mô hình tăng trưởng của Việt Nam tiến triển. Tôi nghĩ là trong bối cảnh nhu cầu quốc tế sẽ phức tạp, Việt Nam cần phát triển nhu cầu nội địa nhiều hơn hiện tại. Dù sao vẫn có một số điểm tích cực, ví dụ như tiền lương ở Việt Nam đang tăng nhanh hơn so với các nước ASEAN khác. Và đó là một cách tốt để hỗ trợ nhu cầu nội địa. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề khác, ví dụ, chi tiêu về xã hội rõ ràng là không đủ, đặc biệt là cho người cao tuổi. Cho nên lương hưu, đặc biệt là lương hưu tối thiểu, là một vấn đề. Ngoài ra, chi tiêu cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, cũng không đủ. Chúng ta biết rằng kinh phí mà thanh niên Việt Nam phải trả để học đại học là quá cao, và khiến một bộ phận người trẻ không muốn hoặc không thể theo học. Đó là điều cần phải thay đổi bởi vì Việt Nam ngày càng cần một lực lượng lao động được đào tạo bài bản và có trình độ để đạt được tăng trưởng hiệu quả hơn và hướng tới các công nghệ khác. Đọc thêmĐể duy trì tăng trưởng cao, Việt Nam buộc phải thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân Ngoài ra, còn có một vấn đề tiềm ẩn khác đang bắt đầu nổi lên, đó là tình trạng lão hóa dân số. Hiện nay, những người trên 65 tuổi chiếm 15% dân số Việt Nam, còn khá thấp so với các quốc gia khác. Tuy nhiên, điều này sẽ thay đổi rất nhanh chóng và sẽ đạt hơn 30% vào năm 2050, đồng nghĩa với việc chi tiêu xã hội cho y tế và hưu trí sẽ tăng đáng kể. Như vậy, chính phủ cần tìm cách tài trợ cho chi tiêu xã hội và làm thay đổi phát triển mô hình xã hội Việt Nam. RFI : Gần đây thiệt hại do thiên tai gây ra ở Việt Nam cũng được đề cập. Theo đánh giá sơ bộ, thiệt hại này chiếm khoảng 2% GDP. Liệu đây có phải là một tác động cần được xem xét cho tăng trưởng ở Việt Nam ? Hubert Testard : Như chúng ta đã biết, biến đổi khí hậu vẫn đang tiếp tục gây ra những tác động, và Việt Nam nằm trong số những nước bị tác động nặng. Chị nhắc đến khoảng 2%, nhưng có khả năng con số này sẽ tăng lên trong những năm tới. Điều đó có nghĩa là, chúng ta không nên kỳ vọng vào việc các cú sốc khí hậu sẽ giảm đi, mà ngược lại sẽ gia tăng. Vì vậy, ở điểm này, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn để có thể ứng phó với những cú sốc trong tương lai. Ngoài ra còn có một khía cạnh khác, đó là quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam nhằm giảm phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Đây cũng là một dự án đầu tư lớn được tiến hành tại Việt Nam. Có thể thấy là có nhiều dự án đã được khởi động, mọi việc tiến triển, nhưng vẫn còn rất xa mục tiêu được đặt ra cho năm 2050. Cho nên chính phủ Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn chuyên gia Hubert Testard, tổng biên tập báo mạng Asialyst chuyên về châu Á.  (1) Quốc hội thảo luận mục tiêu tăng trưởng 2026 từ 10%, GDP đầu người đạt 5.500 USD 2/ Chính phủ đặt mục tiêu GDP năm 2026 tăng 10%
    --------  

À propos de Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Site web du podcast
Applications
Réseaux sociaux
v8.1.4 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 12/17/2025 - 10:30:38 AM