Powered by RND
PodcastsTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Dernier épisode

Épisodes disponibles

5 sur 40
  • Từ "Napalm Girl" đến "The Stringer": Tranh cãi về bức ảnh biểu tượng cho chiến tranh Việt Nam
    Những tranh cãi xung quanh bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl” ( Em bé Napalm ) đã bùng lên kể từ khi một bộ phim được chiếu tại Mỹ khẳng định tác giả của bức ảnh này không phải là Nick Ut mà là một người khác. Trong suốt 53 năm qua, bức ảnh “Napalm Girl”, còn được biết dưới cái tên "Terror of war" ,vẫn được xem là biểu tượng cho sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam. Bức ảnh được chụp ngày 08/06/1972 tại Trảng Bàng khi máy bay của không quân Việt Nam Cộng Hòa ném bom napalm nhầm mục tiêu vào một thánh thất Cao Đài nơi mà một nhóm phụ nữ và trẻ em lúc đó đang trú ẩn. Trong ảnh, người ta thấy Kim Phúc, một cô bé 9 tuổi, bị bỏng nặng, thân thể lõa lồ vì quần áo bị cháy hết, cùng với một số trẻ em, từ làng Trảng Bàng vừa chạy vừa la khóc đau đớn, hoảng loạn trên quốc lộ, trước khi bất tỉnh và được đưa vào bệnh viện.   Chính nhờ bức ảnh này mà ông Nick Ut, một phóng viên nhiếp ảnh trẻ làm việc cho hãng tin Mỹ AP ở Sài Gòn lúc ấy, trở nên nổi tiếng thế giới: Ngay ngày hôm sau “Napalm Girl” được đăng trên trang bìa của New York Times, gây chấn động dư luận quốc tế. Tác giả của bức ảnh ngay năm đó được trao Giải Pulitzer về báo chí. Sang năm 1973, tổ chức World Press Photo ( Giải Báo ảnh Thế giới ) đã trao giải “Bức ảnh của năm” cho “Napalm Girl”. Thế nhưng, ngày 16/05/2025,  World Press Photo lại thông báo tạm ngưng ghi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl” là Nick Ut sau khi một bộ phim tài liệu của đạo diễn Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn tựa đề “The Stringer: The Man Who Took The Photo”, được trình chiếu lần đầu tiên tại Liên hoan phim Sundance ngày 25/01/2025. Các tác giả của  bộ phim khẳng định, sau nhiều năm điều tra, thật ra tác giả của bức ảnh ”Napalm Girl” không phải là Nick Ut, mà là ông Nguyễn Thành Nghệ, được giới thiệu là một “nhà báo tự do” (a stringer).  Bộ phim dựa trên cuộc điều tra của nhà báo Mỹ Gary Knight về tuyên bố vào năm 2022 của Carl Robinson, một nhân viên của hãng tin AP ở Sài Gòn năm 1972. Theo Robinson, ông đã được Horst Faas, trưởng bộ phận ảnh của AP tại Sài Gòn vào thời điểm đó, ra lệnh phải ghi Nick Ut là tác giả bức ảnh, vì Nick Ut là phóng viên chính thức của hãng tin. Bộ phim phỏng vấn rất nhiều người, trong đó có một số phóng viên có mặt tại Trảng Bàng ngày 08/06/1972, nhưng lại không hỏi hai nhân vật chính trong câu chuyện này là Nick Ut (hiện sống tại Mỹ) và bà Kim Phúc (hiện sống ở Canada).  Sau một cuộc điều ra riêng của World Press Photo, giám đốc điều hành World Press Photo, Joumana El Zein Khoury, đưa ra một tuyên bố vào tháng 5: "Mức độ nghi ngờ quá lớn để duy trì việc ghi nhận tên tác giả như hiện tại". Tuy nhiên, World Press Photo cũng không ghi lại tên tác giả bức ảnh. Theo trang mạng PetaPixel, ông Bảo Nguyễn, đạo diễn phim "The Stringer" đã hoan nghênh quyết định của Worlfd Press Photo. Đạo diễn phim đã viết vào tháng 5: "Những phát hiện của họ kết luận rằng, dựa trên các bằng chứng hình ảnh và kỹ thuật hiện có, Nguyễn Thành Nghệ, một nhiếp ảnh gia người Việt Nam lâu nay bị lãng quên, dường như có nhiều khả năng là người chụp bức ảnh này hơn Nick Ut. Việc xem xét lại này một phần được thúc đẩy bởi bằng chứng được trình bày trong "The Stringer", một bộ phim tài liệu điều tra do tôi đạo diễn với sự hợp tác chặt chẽ của một nhóm các nhà báo và đoàn làm phim, nhiều người trong số họ là người Việt Nam.Sự công nhận này có ý nghĩa sâu sắc đối với tất cả chúng tôi, những người tham gia. Nhưng trên hết, nó đại diện cho bước đầu tiên quan trọng trong việc ghi nhận người mà chúng tôi tin là đã thật sự chụp bức ảnh đó: Nguyễn Thành Nghệ. Chúng tôi hy vọng thế giới sẽ biết đến và gọi tên ông ấy". Ông Bảo Nguyễn còn khẳng định rằng "The Stringer" không phải là một bộ phim về Nick Ut, mà là một cuộc khám phá sự thật, ký ức và "gánh nặng thầm lặng của một người đàn ông đã mang trong mình một bí mật hơn năm mươi năm". Ngay sau khi được trình chiếu, bộ phim đã gây tranh cãi rất nhiều trong giới phóng viên nhiếp ảnh quốc tế, nhiều người tin vào những khẳng định trong phim “The Stringer”, nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ tính xác thực của bộ phim. Về phần mình, ngay trước khi "The Stringer" được trình chiếu lần đầu tiên, hãng tin AP đã bác bỏ những khẳng định trong bộ phim và đã tiến hành các cuộc điều tra riêng để đi đến kết luận là không có lý do gì để thay đổi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl”. Ngay sau khi World Press Photo đình chỉ quyền tác giả của Nick Ut cho bức ảnh "Em bé Napalm", ba nhân vậy nguyên là chủ tịch và giám khảo của World Press Photo đã viết một bức thư ngỏ bày tỏ sự thất vọng trước quyết định của tổ chức này và yêu cầu World Press Photo khôi phục quyền tác giả của Nick Ut. Tính đến đầu tháng 6, 400 nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp đã ký vào bức thư đó. Mặc dù không nêu rõ ai là người chụp bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl”, bức thư ngỏ cho là "vẫn chưa có đủ bằng chứng không thể chối cãi" để có thể kết luận đó không phải là ảnh do Nick Ut chụp.  Cũng nhằm biểu thị sự ủng hộ đối với Nick Ut trong vụ này, năm nay ban tổ chức Liên hoan Ảnh Báo chí Thế giới "Visa pour l’image" tại thành phố Perpignan của Pháp, mà giám đốc là ông Jean - François Leroy, ngay từ tháng 5 đã mời ông đến dự.  Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2025 tại Perpignan nhân Liên hoan Visa pour l’image, ông Nick Ut cho biết:  “Họ đã mời tôi cách đây mấy tháng rồi. Nhân dịp này tôi vừa tới thì gặp ông Jean - François Leroy hôm qua. Ông rất mừng khi gặp lại tôi và ông nói: “Chúng tôi ủng hộ Nick Ut trong vụ bức hình Em bé Napalm”. Họ rất là phản đối, bởi vì bức ảnh “Em bé Napalm” đã từng được nói rất nhiều tại Pháp, nhất là tờ báo Paris Match đã từng sử dụng bức hình này rất nhiều. Cách đây ba mươi mấy năm, Visa pour l'image cũng đã từng mời tôi tới đây và tôi đã gặp những phóng viên nổi tiếng, họ luôn luôn ủng hộ tôi. Khi bức hình đó được làm thành phim “The Stringer”, họ rất bực tức và phản đối luôn cả World Press rất nhiều. Cách đây hơn một năm tôi đã nghe câu chuyện đó. Sau đó phim thành hình là phim “The Stringer”. Tôi cũng đã coi phim đó rồi. Phim hoàn toàn là không đúng sự thật, bởi vì họ nói ảnh đó là tôi lấy của một người làm cho NBC. Thật ra ông ấy không phải là nhà báo, mà là một tài xế được mướn mấy tiếng đồng hồ một ngày thôi. Báo chí Việt ngữ nói ông ấy là một nhà báo làm cho đài truyền hình là không đúng sự thật, tại vì tất cả những người Việt Nam làm cho báo Mỹ trong thời chiến tranh tôi đều biết hết.  Tôi được người bạn từ bên Úc gọi tôi một cái message ( tin nhắn ) nói rằng ông Nghệ không có làm báo gì hết. Ông ấy đi du học ở tại Mỹ năm 63 vào thời ông Diệm, học một khóa học về truyền hình tại New Jersey, nhưng thật sự là học làm tình báo. Khi trở về Việt Nam, ông là sĩ quan Việt Nam dưới chính quyền Sài Gòn, chuyên đi khai thác tù binh. Vào ngày 08/06/1972 ở  Trảng Bàng, ông ấy đứng nhìn vào máy hình để bắt những tù binh của Cộng sản về điều tra. Người bạn tôi cho biết là trước khi mất nước năm 75, ông Nghệ đã được tòa đại sứ Mỹ đưa đi trước một tháng. Chỉ có những người nhân viên mật vụ của Mỹ mới được đi sớm. Ông này chưa làm nhà báo bao giờ! Ông chỉ là một tài xế lái xe chở những người của đài truyền hình cameraman, soundman đi Trảng Bàng hôm đó. Tôi cũng không ngờ 53 năm bây giờ mới đem câu chuyện này ra. Những người làm trong AP với tôi tại sao năm mươi mấy năm trước không tố cáo, đợi bây giờ mới tố cáo chuyện này? Trong lúc những người làm việc của AP tới nay vẫn còn tố cáo ông Robinson. Họ nói: "Anh em làm việc chung với mà tại sao ông lại nói Nick Ut như vậy?"  Vào dịp kỷ niệm 50 năm ( chấm dứt chiến tranh Việt Nam ), cũng có một cô giám đốc của AP tới dự lễ ở Sài Gòn. Cô đã nói thẳng với ông Carl Robinson: "Nick Ut có làm gì ông đâu mà ông tố cáo ông ấy ăn cắp hình này kia?" Ông không trả lời gì hết. Trong bộ phim, họ khẳng định là khi xảy ra vụ ném bom ở Trảng Bàng, từ cái góc đang đứng thì ông không thể chụp được bức hình "Em bé Napalm" nổi tiếng đó.  Một người phóng viên thì không phải đứng một chỗ, tôi phải chạy cùng hết. Khi thấy bom nổ, tôi chụp bằng ( ống kính ) tele ( chụp từ xa ). Sau khi cô Kim Phúc bắt đầu chạy ra với mấy đứa em cùng với quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì tôi chạy tới chụp hình đó, rồi tôi chạy thụt lùi lại. Tôi chạy cùng hết, bởi vì tôi biết là Kim Phúc sẽ tới chỗ nào để mà ngừng lại Những hình ảnh đó sẽ được chiếu thứ sáu tuần này ( 05/09/2025 ) tại Visa pour l’image, hàng chục tấm hình tôi đều có. Ông tài xế ông nói ông có một bức hình mà hình của ông ấy bây giờ ở đâu, phim của ông ấy đâu? Không bằng chứng gì hết! Lúc tôi về hãng AP để tráng phim, tôi không phải là người tráng phim, mà do một người Nhật tráng phim thành ảnh. Lúc đó tôi rất là bận với phỏng vấn của hãng AP và sau đó tôi đi về để đợi quay trở lại Trảng Bàng sáng sớm hôm sau cùng với ông giám đốc của tôi và một người reporter. Ngày hôm sau, tôi tới đó khoảng 8 giờ sáng thì gặp bố mẹ Kim Phúc đang chạy trên quốc lộ đi tìm con. Tôi chụp hình cha mẹ đang chạy đi tìm thì tôi mới hỏi: “ Bà kiếm ai?” Bà nói là đang tìm một đứa con gái mà hôm qua đến nay không có tin tức". "Con tên gì?" "Tên là Kim Phúc". "Con bà tôi đã đưa bệnh viện rồi, không biết còn sống hay chết, bởi vì cô đã bị cháy phỏng hết rồi". Hai vợ chồng nhảy lên xe đò chạy về Củ Chi để vô thăm con. Bức hình quá nổi tiếng, cho nên Kim Phúc chỉ nằm trong bệnh viện có mấy tiếng đồng hồ thì được đưa về bệnh viện Sài Gòn ngay. Sau khi bức hình được đăng lên báo trên toàn thế giới, chính phủ Mỹ yêu cầu tất cả bác sĩ cố cứu sống Kim Phúc. Lúc đưa vô bệnh viện thì họ nghĩ là Kim Phúc sẽ chết, nên để cô nằm chung với mấy người đã chết rồi. Khi thấy cô còn tỉnh họ mới đưa về bệnh viện Sài Gòn cứu cấp  . Những nhân chứng của tôi trong trận Trảng Bàng mà còn sống thì bây giờ có ông Dave Burnett và những người phóng viên đã làm cho báo New York Times. Họ đã lên tiếng rất nhiều.   Thế còn cô Kim Phúc, "Em bé Napalm" trong bức ảnh, có đã lên tiếng về vụ này chưa? Cô đã lên tiếng rất nhiều. Cô khóc và nói: “Tại sao chú tôi chụp hình tôi và  đưa tôi vô bệnh viện mấy chục năm nay không ai nói về bức hình đó, tại sao bây giờ tố cáo chú Nick Ut của tôi?” Cô đã đưa lên Facebook hết rồi chứng nhận "chú tôi đã chụp hình và đưa tôi đi bệnh viện. Đã mấy chục năm chú tôi lúc nào cũng gọi điện thoại thăm mỗi tuần”. Tôi sẽ gặp lại cô Kim Phúc tại Washington ngày 09/09. Về quyết định của World Press Photo liên quan đến tác giả  bức ảnh "Napalm Girl" này thì ông có nhận định như thế nào?  Thật ra tôi không có bao giờ để ý chuyện đó, bởi vì hình đó là của AP. Là một hãng lớn nhất thế giới,  AP lúc nào cũng ủng hộ, họ đã tuyên bố đã đi điều tra lâu lắm rồi. Sau khi nghe tin về vụ làm phim họ đã phỏng vấn tôi trong một ngày. Sau đó họ đưa tin đến tất cả các hãng thông tấn nước ngoài để nói hình đó là của Nick Ut và AP vẫn ủng hộ tôi.  Khi làm phim The Stringer, họ không hề phỏng vấn tôi về chuyện này. Diễn viên Đỗ Yến ở thành phố Hồ Chí Minh, là bạn thân tôi của tôi, đã có mời Bảo Nguyễn tới một bữa cơm cùng nhiều đạo diễn Việt Nam. Thật sự tôi lúc tôi không quen biết (những người đó ), tôi chỉ ngồi nói chuyện, chào hỏi sơ qua. Tôi không ngờ những người đó đã âm thầm làm phim về tôi.  Như vậy sắp tới đây ông sẽ có những hành động gì để chống lại những khẳng định đó? Bây giờ tôi có hai luật sư. Luật sư của tôi bên Mỹ và luật sư tại Paris. Họ sẽ đưa bộ phim ra tòa, hy vọng là phim này sẽ bị hủy bỏ. Đạo diễn phải rút lại bộ phim đó. Bởi vì người bỏ tiền ra làm phim đó là ông Gary Knight. Chúng tôi đã làm việc với nhau tại Hà Nội cách đây ba năm. Tôi không ngờ người bạn mà tôi mới biết đây tự nhiên đi làm phim để tố cáo tôi. Trả lời qua email trong cuộc trả lời phỏng vấn độc quyền với BBC ngày 17/5, ông Nguyễn Thành Nghệ đã khẳng định ông không phải là lái xe làm việc cho đài NBC mà là một phóng viên tự do, đi cùng anh rể là Trần Văn Thân, người làm việc cho NBC. Vào ngày 8/6/1972, NBC khi ấy đang không có tài xế trong khi ông có bằng lái nên đã tình nguyện chở nhóm phóng viên đến hiện trường và hôm đó ông mang theo duy nhất một chiếc máy ảnh Pentax. Thật ra, chính hãng tin AP cũng đã nhìn nhận "cuộc điều tra của chúng tôi đặt ra những câu hỏi quan trọng mà có thể chúng tôi sẽ không bao giờ có thể trả lời được",  "hơn năm mươi năm đã trôi qua, nhiều người liên quan đã qua đời, và công nghệ có giới hạn của nó". Theo hãng thông tấn Mỹ, "có nhiều khả năng" là bức ảnh được chụp bằng máy ảnh Pentax, trong khi Nick Ut đã tuyên bố trong một số cuộc phỏng vấn rằng ông sử dụng hai máy ảnh Leica và hai máy ảnh Nikon vào hôm đó. AP cho biết thêm: "Câu chuyện là Ut đã chụp bức ảnh bằng máy ảnh Leica. Cuộc điều tra của AP cho thấy điều đó rất khó xảy ra. Nhưng Nick Ut cũng sử dụng các máy ảnh khác, bao gồm cả máy ảnh Pentax thừa hưởng từ người anh trai quá cố của ông". Tranh cãi có thể sẽ còn kéo dài, nhất là vì, theo thông báo của các nhà sản xuất và đạo diễn, hãng Netflix vừa mua lại bộ phim "The Stringer" và sẽ chiếu trên nền tảng của họ trong năm nay. Tuy nhiên, Netflix hiện chưa đưa ra thông báo chính thức về vụ này.  
    --------  
  • Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?
    Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập. Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa. RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể … Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này. Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp. Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa. Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng. RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời. Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn. Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa. Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác. RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên. Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế. Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau. Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực. Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện được thì nó cũng không có giá trị gì. RFI tiếng Việt : Đối với những vùng bị mặn đó, theo tiến sĩ thì đâu là những loại vật nuôi hay cây trồng phù hợp hơn để thay cho cây lúa ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chuyện chọn cây trồng vật nuôi phù hợp cho vùng mặn như thế nào thì chúng ta phải hoàn toàn tính toán từ góc độ thị trường và góc độ người sử dụng. Chẳng hạn như trong 5 năm vừa qua, chúng tôi có làm một chương trình là đầu tiên chọn vùng đất không còn khả năng để trồng lúa nữa bởi vì muối đã tích lũy trong đất quá nhiều rồi, chúng tôi chọn một vài loại cây phù hợp cho vùng đất này. Cụ thể là chúng tôi chọn loại cỏ mọc rất là nhiều trước đây, trước khi đồng bằng được khẩn quang để chuyển sang trồng lúa hay nuôi tôm. Khi chuyển qua trồng lúa, nuôi tôm, người ta diệt hết loại cỏ đó. Chúng tôi đem loại cỏ đó phục hồi và trồng lại, cây đó tiếng địa phương ta kêu là cây năn tượng. Ngoài chuyện cải tạo đất, cải tạo môi trường thì chúng tôi sử dụng nguyên liệu từ loại cỏ đó để phát triển những ngành hàng về thủ công mỹ nghệ, giúp cho những người dân địa phương có được công ăn việc làm tại nhà. Người ta có được nguồn nguyên liệu tại chỗ và người ta bán được sản rồi mua lại gạo để ăn. Và điều này đó chắc chắn hơn rất là nhiều so với chuyện trồng lúa. Trồng lúa bấp bênh, có thể là năm trúng năm thất, mặc dù trồng lúa nhưng mà lại có những năm không đủ gạo ăn. Nhưng mà bây giờ trồng cỏ thì lại luôn có gạo ăn. Như vậy rõ ràng chuyện mà bấy lâu nay chính sách gọi là an ninh lương thực của chúng ta chỉ chăm chăm vào chuyện phát triển diện tích trồng lúa, nhưng rõ ràng lương thực không phải chỉ có lúa gạo. Lương thực có nhiều cách làm và có nhiều con đường để chúng ta có đủ lúa gạo mà ăn chứ không phải lúc nào cũng phải trồng lúa mới có gạo mà ăn. RFI tiếng Việt : Như tiến sĩ vừa mới nói, thì nước mặn, nước lợ hay nước lũ hoàn toàn có thể là tài nguyên. Vậy thì trong những năm vừa qua, để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu thì Việt Nam và cụ thể là đồng bằng sông Cửu Long đã có những hành động, những chương trình cụ thể gì để biến nước mặn, nước lũ, nước lợ thành tài nguyên ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chúng ta có một nghị quyết thuận thiên, một bản quy hoạch, một bản đồ phân vùng rất cụ thể, vùng nào ưu tiên nước mặn, vùng nào ưu tiên nước lợ, vùng nào ưu tiên nước ngọt ... Nhưng điểm yếu là chúng ta không có những cái triển khai cụ thể. Tôi lấy ví dụ là nếu chúng ta xem nước mặn cũng là một tài nguyên, vậy thì bây giờ đó chúng ta phải có một nguồn kinh phí để hỗ trợ những nhà khoa học ở các viện, trường để họ tập trung vào chuyển những giống cây con thích nghi với nước mặn, để xây dựng quy trình sản xuất, để rồi chuyển giao quy trình sản xuất đó cho người nông dân và người nông dân mới bắt tay vô sản xuất, mới tạo ra được một hàng hóa lớn cho nhân dân chẳng hạn. Cái đó chúng ta vẫn thiếu. Tôi mong rằng là với một ví dụ mà chúng tôi đã làm trong mấy năm nay, tại vùng không trồng lúa được thì chúng ta có thể trồng cỏ và sử dụng cỏ đó để làm tiểu thủ công nghiệp và giúp cho người dân có ngành nghề tại chỗ rồi bán người có thu nhập rồi chẳng hạn người dân lấy tiền mua lại gạo để ăn … Bây giờ không phải là trồng những cái cây ăn được mới gọi là trồng là gọi là nông nghiệp. Tôi trồng cỏ, nhưng mà tôi trồng cỏ thì người dân vẫn có gạo ăn. Và thậm chí có gạo ăn tốt hơn là người ta tự trồng lúa. Tôi tin rằng đó sẽ là tiền đề để cho người ta thấy rằng chuyện mà chúng ta nói nước lũ, nước lợ, nước mặn là tài nguyên không phải chỉ là chúng ta nói trên giấy mà chúng ta đã có những mô hình thực tiễn rồi, và như vậy tôi mong rằng trong tương lai từ mô hình thực tiễn đó chúng ta có thể mở rộng ra cho những vùng khác. RFI tiếng Việt : Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có nhận được sự hỗ trợ về nghiên cứu khoa học của các cơ quan tổ chức khoa học trên thế giới về chống biến đổi khí hậu, chống mặn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Có, trong giai đoạn chúng tôi xây dựng những mô hình để xác định vùng khó khăn nhất không còn trồng lúa được, coi mức độ mặn như thế nào để chọn loại cây trồng phù hợp và xây dựng kế hoạch để đào tạo nghề cho người dân nông thôn … thì đến năm 2023 chúng tôi được chính phủ Úc tài trợ khoảng 550.000 đô la Úc để mở rộng mô hình này. Và hiện nay nhiều địa phương và doanh nghiệp cũng đang nhờ chúng tôi xây dựng cho họ những vùng trồng, xây những làng nghề … Tôi mong rằng chuyện kết hợp một cách hài hòa và thực chất giữa người nông dân, giới làm nghiên cứu rồi đặc biệt là các doanh nghiệp để đưa ra những mô hình thực tiễn, và từ mô hình thực tiễn đó chúng ta rút ra được những bài học tổng quát và sử dụng những bài học tổng quát đó để hình thành những chính sách và định hướng lâu dài cho các khu vực. Được như thế thì tôi cho rằng chúng ta đang bắt đầu đi đúng hướng.
    --------  
  • Chuyển toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành: Giới chuyên gia Việt Nam quan ngại
    Có nên chuyển toàn bộ các chuyến bay quốc tế từ Sân bay Tân Sơn Nhất đến Sân bay Long Thành ngay từ năm 2026? Đó là vấn đề đang gây nhiều tranh cãi tại Việt Nam và nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự quan ngại về phương án này.  Công trình xây dựng sân bay quốc tế Long Thành, trên diện tích 5.000 ha, được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một dự kiến hoàn thành cuối năm nay. Theo kế hoạch dự trù, vào ngày 19/12/2025, chuyến bay “kỹ thuật” đầu tiên cất cánh từ Sân bay Nội Bài, Hà Nội, sẽ hạ cánh xuống đường băng Sân bay Long Thành. Kể từ giữa năm tới, trên nguyên tắc sân bay quốc tế mới này sẽ được đưa vào hoạt động, trước mắt là với công suất 25 triệu lượt khách và 1,2 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Sân bay sau khi hoàn tất giai đoạn đầu được được mô tả là “với hạ tầng hiện đại, nhà ga rộng, công nghệ tự động hóa và luồng di chuyển thông thoáng”. Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV) đã đề ra hai phương án: Hoặc là chuyển toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ 2026, hoặc chỉ dời các đường bay quốc tế dài, giữ lại các chặng ngắn ở Tân Sơn Nhất. Theo báo chí Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam và nhiều hãng bay quốc tế cũng “cơ bản nhất trí” với phương án tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành, cho rằng như vậy sẽ “thuận tiện quản lý, tối ưu nguồn lực*. Vị trí của Sân bay Long Thành được cho là “thuận lợi hơn” vì nằm tách biệt với khu dân cư, không phải hạn chế giờ bay và sẽ được kết nối bằng các đường cao tốc, đường vành đai và trong tương lai sẽ có các tuyến metro. Nhưng vấn đề là hiện giờ mạng lưới giao thông đó hầu như chưa có và như vậy việc tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ giữa năm 2026 sẽ đặt ra nhiều vấn đề về di chuyển đối với hành khách, nhất là vào những giờ cao điểm. Nhiều chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về phương án này, trong đó có kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, hiện là Chủ tịch NgoViet Architects & Planners và có trên 30 năm kinh nghiệm quốc tế về tư vấn thiết kế, quy hoạch kiến trúc tại châu Á và Bắc Mỹ. Theo quan điểm của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, Sân bay Long Thành chưa thể tiếp nhận ngay toàn bộ hay phần lớn các chuyến bay quốc tế, mà vai trò của sân bay này nên được nâng dần lên theo từng bước cho đến khi có đầy đủ cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết. Sau đây mời quý vị nghe bài phỏng vấn qua điện thoại với kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn: Xin kính chào kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, xin cám ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn. Trước hết ông có đánh giá như thế nào về vị trí và tiềm năng của Sân bay Long Thành? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Long Thành có một vị trí chiến lược tốt, bởi vì Sân bay Long Thành phục vụ cho cả vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh, chứ không phải chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương quan với những khu vực trọng điểm như là khu trung tâm của các tỉnh thành lân cận thành phố Hồ Chí Minh: Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng như các hạ tầng trọng điểm như Cụm cảng biển Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ, cùng trung tâm đường sắt ở phía Bình Dương, v.v…, tôi nghĩ rằng đây là một vị trí chiến lược tốt. Sân bay cũng nằm cách trung tâm nội thành Thành phố Hồ Chí Minh trong một khoảng cách có thể nói là lý tưởng, khoảng 40km, không quá xa và sân bay có quỹ đất rộng. Thưa ông, có hai phương án đang được đặt ra cho năm 2026: Hoặc là dồn toàn bộ các chuyến bay quốc tế đến Sân bay Long Thành, hoặc là chỉ chuyển những chuyến bay đường dài đến Long Thành và những chuyến bay đường ngắn thì tạm thời vẫn để ở Tân Sơn Nhất. Về các hệ thống giao thông để mà kết nối sân bay Long Thành với Sài Gòn chẳng hạn thì ông thấy hiện nay họ đang tiến hành như thế nào?  KTS Ngô Viết Nam Sơn: Các nhà quản lý mong là sẽ đưa sân bay Long Thành vào hoạt động cuối năm nay hoặc là đầu năm sau. Tuy nhiên, có vẻ như là những dự án kết nối hạ tầng, kết nối vùng không theo kịp với tiến độ này. Hai phương án mà ACV đưa ra: Một là chuyển toàn bộ tuyến quốc tế về Long Thành và hai là chỉ chuyển những tuyến đường dài về Long Thành và giữ lại những tuyến đường ngắn lại cho Tân Sơn Nhất và cả hai sân bay đều có tuyến bay quốc nội. Tôi nghĩ rằng hai phương án này cũng chỉ hướng đến mục tiêu ngắn hạn thôi, bởi vì chúng ta phải nhìn đến với mục tiêu dài hạn là hướng đến đích đến, khi mà hoàn thành đúng như kỳ vọng và đúng như quy hoạch, Long Thành sẽ là một sân bay tầm cỡ quốc tế hàng đầu của siêu đô thị Thành phố Hồ Chí Minh. Mình nói siêu đô thị là bởi vì Thành phố Hồ Chí Minh đã rất là lớn, quy mô đã trên 10 triệu dân và vừa rồi Thành phố Hồ Chí Minh nay sáp nhập với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tăng quy mô đô thị lên gấp ba và dân số lên gấp rưỡi. Như vậy, Sân bay Long Thành phục vụ cho cả một vùng đô thị Nam Bộ rộng lớn phía Nam, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm. Như vậy, nhìn đến kỳ vọng tương lai, khi đó sân bay Long Thành có thể được ví như sân bay Charles de Gaulle của Paris với những tuyến quốc tế đường dài và hạ tầng của nó thì không chỉ có đường bộ, đường cao tốc, mà có cả kết nối metro, kết nối đường sắt cao tốc, giống như TGV của Pháp, đến sân bay Long Thành. Bên cạnh đó là khu vực xung quanh sân bay Long Thành sẽ hình thành như là một đô thị sân bay ( Airport City ). Giữa Sân bay Long Thành và Cụm Cảng Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ còn có khu thương mại tự do quốc tế đang được dự tính xây dựng, một phần là sẽ thuộc Đồng Nai, một phần sẽ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.  Viễn cảnh xa là như vậy, nhưng trước mắt, nếu chúng ta đưa nó vào sử dụng, cho là đầu năm sau đi, thì rõ ràng là hạ tầng kết nối không kịp xây dựng. Đứng về góc độ khoa học, chúng ta có thể thấy rất rõ là việc nóng vội đưa tất cả những tuyến bay quốc tế về đây sẽ không hiệu quả, sẽ làm giảm giá trị của cả Long Thành lẫn Tân Sơn nhất. Tức là cả hai sân bay đều không hoạt động được tốt. Trước mắt, nếu muốn đưa sân bay Long Thành sớm sử dụng đó, tôi vẫn thấy phương án hai có lẽ là khả thi hơn, mặc dù là trong tương lai, Sân bay Long Thành sẽ đóng một vai trò quan trọng hàng đầu tại Việt Nam, lúc đó Tân Sơn Nhất sẽ đóng vai trò thứ yếu. Nhưng sang năm thì tôi nghĩ rằng chúng ta hãy nhìn vào thực tế: vẫn nên để Tân Sơn Nhất quan trọng hơn Long Thành trong ngắn hạn. Bởi vì, với một siêu đô thị như Thành phố Hồ Chí Minh mà hoạt động hiện giờ là khách quốc tế ra vào và khách quốc nội đi và đến sân bay Tân Sơn Nhất, thì không nên vì mong muốn thúc đẩy phát triển Long Thành khi nó chưa có đủ điều kiện mà làm hại đến sự nghiệp chung. Vâng, tức là có nguy cơ nó sẽ gây khó khăn cho các hãng hàng không quốc tế  tức là hành khách của những chuyến bay quốc tế dài tới Long Thành muốn kết nối với Sân bay Tân Sơn nhất để đi các chuyến nội địa thì gặp tình trạng là đường xá của mình không phục vụ kịp. KTS Ngô Viết Nam Sơn: Chắc chắn rồi. Chúng tôi cũng đi nước ngoài thường xuyên. Sân bay quốc tế nào cũng vậy thôi, kết nối quốc nội với quốc tế phải thuận tiện. Hiện giờ người ta đang mong muốn Long Thành trở thành như là một "hub" về hàng không, sẽ là nơi tập trung những chuyến bay đường dài đi Châu Mỹ, đi Châu Âu, đi Châu Úc, vân vân… và sẽ có những chuyến quốc nội và quốc tế đến và gom khách ở đây. Dần dần sẽ có những chuyến bay thẳng của máy bay Boeing và Airbus rất lớn. Nhưng chúng ta phải nhìn nhận là hiện giờ Long Thành chưa phải là hub. Muốn trở thành hub thì cần điều kiện là hạ tầng kết nối phải rất là tốt. Bên cạnh đó, các hãng hàng không của Việt Nam, ít ra là hai hãng Vietnam Airlines và Vietjet, phải vươn lên tầm quốc tế, giống như Singapore Airlines hay là Japan Airlines, lúc đó nó mới trở thành là một thực tế. Như vậy là việc chuyến các chuyến bay quốc tế đến Long Thành là tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của sân bay. Khi nào thì Sân bay Long thành mới có thể đạt được mục tiêu đó? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Tôi nhìn đến một kịch bản là mình tăng dần dần tầm quan trọng của Long Thành. Có thể là bước một sẽ có một số tuyến quốc tế và giai đoạn đầu có thể tập trung nhiều hơn cho hoạt động vận chuyển hàng hóa, tức là chuyển toàn bộ hoạt động vận chuyển hàng hóa, hay sửa chữa bảo dưỡng máy bay của Tân Sơn Nhất về Long Thành. Bước một thì có thể chấp nhận là Tân Sơn nhất vẫn quan trọng hơn Long Thành. Bước hai là khi bắt đầu có những kết nối hệ thống phục vụ cho Sân bay Long Thành, không chỉ là giao thông xung quanh sân bay, mà cả kết nối đến các tỉnh thành ở trong vùng Nam Bộ, bởi vì một  sân bay như Long Thành phục vụ cho cả một vùng đô thị rộng lớn, chứ không phải chỉ một hai tỉnh thành. Bước hai là khi chúng ta có kết nối ít nhất là đường bộ cao tốc nối đến các tỉnh thành, những hệ thống vành đai 1,2,3,4 của Thành phố Hồ Chí Minh hoàn thành những kết nối trực tiếp, như là đường Long Thành - Dầu Giây, được mở rộng ra để không ách tắc. Và có thể thêm được hai tuyến metro quan trọng. Thứ nhất là tuyến Metro trực tiếp từ Thủ Thiêm chạy thẳng lên Long Thành và thứ hai là kéo dài  tuyến Metro số 1 lên Biên Hòa từ Biên Hòa xuống Long Thành. Có nghĩa là sân bay này sẽ được phục vụ bởi hai tuyến metro từ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc đó mình mới nên bàn đến việc chuyển đa số những tuyến quốc tế, đường ngắn và đường dài, về Long Thành.  Bước ba thì xa hơn thế. Lúc đó Long Thành không chỉ là một sân bay, không chỉ là một điểm trung chuyển, mà có thể trở thành điểm đến theo mô hình thế kỷ 21 của thế giới, đó là đô thị sân bay. Về đô thị sân bay, tôi có đi thăm và làm việc với các đồng nghiệp ở sân bay Charles de Gaulle, họ có đưa lên khu đô thị sân bay của Paris. Sân bay Changi của Singapore, hay sân bay Schiphol ở Amsterdam thì đi khá xa với mô hình đô thị sân bay. Đến đó chúng ta thấy sân bay trở thành một điểm đến hấp dẫn. Khi hạ cánh xuống người ta có thể lựa chọn ở lại sân bay, có khách sạn, có căn hộ, rồi có dịch vụ thương mại, thậm chí là công viên giải trí. Bước ba thì Long Thành sẽ trở thành thứ nhất là một đô thị sân bay. Thứ hai là khu thương mại tự do kết nối với Long Thành, kết nối với Cụm cảng biển Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ, trở thành cũng là một điểm đến hấp dẫn. Lúc đó nó mới thật sự là kỳ vọng mà chúng ta đang mong muốn cho Long Thành. Tóm lại, trong ba bước này, tầm quan trọng của Long Thành sẽ tăng dần dần. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh là ở bước một, hãy khoan thúc đẩy nó ở một vai trò quá quan trọng so với năng lực hạ tầng của nó. Trong bước một thì có thể khai trương, đưa Sân bay Long Thành vào sử dụng, nhưng ở bước một này, nó không thể quan trọng hơn Tân Sơn Nhất được.
    --------  
  • Việt Nam: Thuế "trung chuyển" của Mỹ gây khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
    Thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 07/08/2025. Thật ra, theo bộ Công Thương, trong thời gian tới, Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đàm phán về thỏa thuận “thương mại đối ứng” và Hà Nội vẫn hy vọng sẽ được hưởng một mức thuế thấp hơn.  Trước mắt, một số các chuyên gia nhận định mức thuế 20% cho hàng hóa Việt Nam là cao hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Cam Bốt, Indonesia, Malaysia, Philippines (19%), nhưng đây vẫn là mức thuế "tương đối phù hợp" trong bối cảnh Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về xuất khẩu vào Hoa Kỳ và có mức thặng dư thương mại lớn thứ tư với Hoa Kỳ. Tuy vậy, theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội, mức thuế 20% vẫn bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam:  “Mức thuế 20% này là vẫn rất bất lợi so với một số nước khác được mức thuế 19% hay là 15%, cho nên nó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các hàng hóa Việt Nam và kết quả là xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã chậm lại và giảm sút khoảng hơn 20%.Theo tôi, những mặt hàng bị tác động bao gồm may mặc, da giày và kể cả một số mặt hàng đồ gỗ. Nếu như tình hình tiếp tục như thế này, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ phải tìm cách đa dạng hóa các thị trường và tìm các biện pháp để có thể tiếp tục duy trì sản xuất và xuất khẩu của mình và tìm cách né tránh thuế 20% này. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng tìm cách mở rộng thị trường ở Trung Đông và tìm kiếm những thị trường ở Châu Phi, đồng thời muốn phát triển những thị trường khác tuy nhỏ nhưng hy vọng là sẽ vẫn có thể đón nhận được hàng hóa của Việt Nam một cách thuận lợi. Tình hình đó đối với sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, nhất là đối với những doanh nghiệp trung bình và nhỏ, đang gây khá nhiều khó khăn. Những doanh nghiệp đó chắc là sẽ phải tìm cách kết nối với các doanh nghiệp lớn hơn, để có thể tiếp tục tồn tại. Có nghĩa là họ có lẽ sẽ phải, nhiều hay ít,  thay đổi sản phẩm của họ và tìm kiếm những đối tác mới.” Riêng về thủy sản, một trong những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ, theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), do mức thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2025 sẽ chỉ là khoảng 9 tỷ đôla, giảm gần 10% so với năm 2024. Nhưng vấn đề lớn hơn, có thể ảnh hưởng đến cả đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đó là mức thuế 40% mà chính quyền Trum áp dụng đối với những hàng hóa “trung chuyển”, chủ yếu là hàng có nguyên liệu, linh kiện từ Trung Quốc nhưng được sản xuất ở Việt Nam để được dán nhãn, nhằm né thuế quan của Mỹ. Chỉ có điều cho tới nay phía Mỹ vẫn chưa đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào là hàng “trung chuyển”. Chuyên gia Lê Đăng Doanh giải thích: “Hiện nay, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ và thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc. Mỹ xem xét những mặt hàng gọi là “trung chuyển” dựa trên tỷ lệ giá trị gia tăng của sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Nếu như Việt Nam cố gắng gia tăng được tỷ lệ đó, để các hàng hóa đó không còn bị xem là hàng hóa trung chuyển, mà là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, thì có thể giảm được mức thuế 40% này. Còn mức thuế 40% này rất bất lợi đối với hàng hóa của Việt Nam bị gọi là trung chuyển. Rất nhiều sản phẩm của các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam nhưng lại nhập khẩu các linh kiện từ các nhà sản xuất cũng của hãng ấy tại Trung Quốc, mà những đầu tư của họ vào Trung Quốc thì có quy mô rất lớn. Vì vậy, ví dụ như trong một điện thoại của hãng Samsung sản xuất tại Việt Nam, tỷ lệ phụ thuộc vào các linh kiện nhập khẩu từ cơ sở của Samsung ở Trung Quốc là không nhỏ. Cho nên vấn đề ở đây là phải hợp tác với các nhà đầu tư, với các nhà xuất khẩu, để nâng cao tỷ lệ sản xuất tại Việt Nam, nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, kể cả các sản phẩm gọi là “made in Việt Nam” nhưng tỷ lệ giá trị gia tăng thì còn tương đối thấp và rất có thể sẽ bị Mỹ xếp vào loại hàng trung chuyển và chịu mức thuế cao. Mức thuế này dĩ nhiên là một tín hiệu rất là quan trọng. Các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như các nhà xuất khẩu của Việt Nam đang phải xem xét các phương án đa dạng hóa những nguồn linh kiện và sản phẩm, để có thể giảm bớt việc chịu thuế trung chuyển 40% này. Biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta phải tiến tới một  trình độ công nghệ cao hơn, một trình độ chất lượng sản phẩm cao hơn và có những nguồn nhân lực chất lượng cao hơn, am hiểu về chuyển đổi số, về thị trường nước ngoài. Với nỗ lực đa dạng như vậy, tôi hy vọng là Việt Nam trong một thời gian nhất định sẽ cố gắng vươn lên để giảm bớt tỷ lệ những mặt hàng bị xếp là trung chuyển.” Trang mạng Luật Khoa tạp chí ngày 12/08 ghi nhận: “Sự mơ hồ của chính sách thuế quan mới từ Mỹ, khi chưa có định nghĩa rõ ràng về dạng hàng hóa “trung chuyển” cũng khiến các doanh nghiệp FDI ( đầu tư nước ngoài ) lo ngại và phải tìm những giải pháp phòng ngừa từ xa. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu lựa chọn phương thức thu hẹp quy mô sản xuất. Một số khác lại dần di chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Việt Nam. Những điều này đã phơi bày những điểm yếu trong cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước những biến động của chính sách thương mại toàn cầu.” Tác giả bài viết giải thích: “Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc hơn 70% giá trị xuất khẩu vào các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI). Chưa kể là ngành sản xuất trong nước phải lệ thuộc phần lớn nguồn nguyên liệu nhập khẩu, mà trong đó khoảng 80% đến từ Trung Quốc. Trong khi đó, tỷ lệ hàng thực sự đạt tiêu chí nội địa hóa, tức là do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ hoàn toàn công nghệ và dây chuyền sản xuất, chỉ dừng lại ở mức 5 – 10% trong giá trị hàng hóa xuất khẩu. Do vậy, nếu hàng hóa trung chuyển được hiểu là những hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn làm chủ quá trình sản xuất, thì hầu như hàng Việt Nam xuất đi các nước, không riêng gì Mỹ, chỉ là hàng trung chuyển. Tính không rõ ràng trong cách định nghĩa hàng hóa “transshipment” của Mỹ đang làm tê liệt quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hay nói khác đi, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp chuỗi giá trị và thu hút các dự án FDI chất lượng cao, sự mơ hồ trong chính sách thương mại của Mỹ có thể trở thành một rào cản không hề nhỏ.” Thế nhưng, thuế “trung chuyển” của chính quyền Trump hiện giờ có vẻ không ảnh gì đến đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, theo ghi nhận của hãng tin Bloomberg. Trong khi Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế khoảng 55%, Việt Nam, chịu mức thuế 20%, vẫn được xem là tương đối an toàn. Nhà phân tích Steven Tseng của Bloomberg Intelligence cho biết: "Việt Nam vẫn đang ở vị thế tương đối thuận lợi. Mặc dù mức thuế 20% không phải là mức thấp nhất, nhưng nó không nhất thiết làm giảm khả năng cạnh tranh do Việt Nam có lợi thế về chi phí, cơ sở công nghiệp đã được thiết lập và có vị trí địa lý gần Trung Quốc. Việc các nhà sản xuất Trung Quốc chuyển sang Việt Nam vẫn là điều hợp lý."  Hãng tin Bloomberg nhắc lại: Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu của chính phủ Việt Nam, đầu tư từ Trung Quốc và Hồng Kông trong nửa đầu năm nay đã tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 3,6 tỷ đô la. Trong quý II, sau khi tổng thống Trump công bố mức thuế quan đối với thế giới, con số này đã tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, các quan chức tại Hà Nội cũng thừa nhận rằng thuế quan có thể ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, và ngành công nghệ đặc biệt dễ bị tổn thương. Theo một đánh giá nội bộ của chính phủ ngày 11/0 7, lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ có thể giảm tới một phần ba và xuất khẩu công nghệ có thể giảm khoảng 15 tỷ đôla. 
    --------  
  • EU-Việt Nam vượt bão thuế quan Mỹ qua Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA ?
    Ngày 01/08/2025, cùng ngày Mỹ công bố mức thuế đối ứng đối với 69 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu kỷ niệm tròn 5 năm Hiệp định Tự do Thương mại - EVFTA - có hiệu lực. Hoa Kỳ luôn là thị trường lớn nhất cho cả hai bên, nhưng những mức thuế quan do tổng thống Donald Trump áp đặt buộc các đối tác, trong đó có Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu, phải đa dạng hóa thị trường, giảm bớt phụ thuộc xuất khẩu sang Mỹ. Mức thuế đối ứng áp dụng cho Việt Nam, từ 46% xuống còn 20%, đã có hiệu lực từ ngày 07/08. Theo tính toán của nhóm nghiên cứu Ban Tài Khoản Quốc Gia, được ông Lê Trung Hiếu, phó cục trưởng Cục Thống Kê (Bộ Tài Chính) trích dẫn (1), mức thuế 20% này sẽ tác động làm giảm 11-12 tỷ đô la trị giá hàng xuất khẩu vào Mỹ (tương đương khoảng 9-10% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa). Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Điều này được tái khẳng định qua số liệu thống kê hải quan Mỹ trong 5 tháng đầu năm 2025 : Trao đổi thương mại song phương đạt 77,4 tỷ đô la, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2024. Đối với Liên Hiệp Châu Âu, Việt Nam là đối tác thương mại hàng đầu ở ASEAN và là đối tác đứng thứ 16 trên toàn cầu, với tổng kim ngạch thương mại song phương tích lũy gần 300 tỷ đô la trong 5 năm hiệp định EVFTA có hiệu lực (2). Cùng chịu sức ép về thuế quan của Mỹ, Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam có thể tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do - EVFTA như thế nào ? Ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam - EuroCham, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 08/08/2025. RFI : Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức thuế 20% mà Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng hóa Việt Nam. Xin ông cho biết phản ứng của EuroCham và các thành viên ? Liệu đây có phải là một bất lợi cho Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh với các nước láng giềng ASEAN (chịu mức thuế 19%) đang rất căng thẳng ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng là có phần nhẹ nhõm vì mức thuế đó xa với mức 46% được công bố ban đầu. Nhưng rõ ràng đây là một bất lợi. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, đó là mức độ cạnh tranh tương đối với các nước láng giềng trong khu vực. Chênh lệch 20%, 19%, không thực sự đáng kể, và tôi nghĩ Việt Nam có nhiều biên độ cạnh tranh và năng suất cho phép vượt qua bất lợi này. Dù sao thì đó vẫn là một bất lợi, nhưng tôi không nghĩ là sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho xuất khẩu, trong khi mức thuế 46% có lẽ sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động sản xuất. Tôi nghĩ là Việt Nam sẽ có thể đối phó được. Đọc thêmViệt Nam sẵn sàng nhập thêm nông sản Mỹ để đối phó với chính sách thuế quan mới của TT Trump RFI : Tháng 04, khi tổng thống Mỹ thông báo mức thuế đối ứng 46% đối với Việt Nam, EuroCham tiến hành một cuộc thăm dò, theo đó 25% các công ty châu Âu hoạt động tại Việt Nam cảm thấy hoạt động kinh doanh của họ bị đe dọa và 20% dự đoán doanh thu sẽ giảm. Mức thuế hiện tại là 20% sẽ tác động đến các doanh nghiệp này như thế nào ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng vậy. Mức thuế 46% sẽ rất khó khăn. 20% thì khả thi. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý là có hai mức thuế khác nhau. Mức thuế 20% được áp dụng cho các sản phẩm có nguồn gốc Việt Nam. Ngoài ra còn có mức thuế 40% nổi tiếng, mà Mỹ gọi là “trung chuyển” (transshipment). Theo thuật ngữ hải quan Hoa Kỳ, “trung chuyển” không chỉ đơn giản là dỡ hàng từ một phương tiện vận chuyển hay từ một hình thức vận chuyển này sang một phương tiện hoặc hình thức vận chuyển khác, mà chủ yếu là sự thay đổi nguồn gốc ở nước cuối cùng. Nói cách khác, nếu quyết định đánh thuế hàng “trung chuyển” được sử dụng để áp đặt một hàm lượng nội địa tối thiểu đáng kể, thì có nghĩa là để ngăn chặn nhập khẩu nguyên liệu từ các nước thứ ba, ý tôi muốn nói ở đây là Trung Quốc chẳng hạn. Đọc thêmBị Mỹ đánh thuế 46% : Việt Nam trả giá vì làm “sân sau” cho Trung Quốc ? Việc này có lẽ sẽ là một vấn đề lớn đối với phần lớn lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Tôi lấy ví dụ về ngành dệt may ở Việt Nam, một phần rất lớn vải vóc là được nhập khẩu từ Trung Quốc. Vì vậy, mức thuế 40% đánh vào hàng “trung chuyển” này sẽ mang tính quyết định cho khả năng tiếp tục phát triển của ngành công nghiệp ở Việt Nam, bởi vì hiện tại, Việt Nam không thể bảo đảm sản xuất được 100% hoặc 80% sản lượng nội địa, có thể là trừ sản xuất nông nghiệp. RFI : Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam có Quy định Xuất xứ. Các doanh nghiệp châu Âu cũng gặp vấn đề tương tự. Tuy nhiên quy định về xuất xứ của Mỹ sẽ tác động như thế nào đến hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu ở Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Trong khuôn khổ EVFTA, chúng tôi có các tiêu chuẩn quy tắc xuất xứ quy ước, xuất phát từ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - OMC/WTO và đã được đàm phán trong khuôn khổ này. Đúng là việc ngành công nghiệp Việt Nam không hoàn toàn tự chủ, và kết hợp một số lượng nguyên vật liệu đầu vào nhất định từ các nước thứ ba, đặc biệt là từ Trung Quốc, tạo ra một khó khăn, nhưng không phải là không thể vượt qua được. Vấn đề ở chỗ là với định nghĩa mới về “trung chuyển” - chúng ta hãy thử thử hình dung là sắp tới Mỹ yêu cầu 40% giá trị gia tăng (nguyên vật liệu đầu vào của hàng hóa) phải thuộc về nội địa, thì Việt Nam sẽ rất khó xuất khẩu hàng dệt may hoặc giày dép. Điều này hơi khác một chút trong khuôn khổ trao đổi với Liên Hiệp Châu Âu, bởi vì chúng tôi có các quy tắc của OMC. Đó là những quy tắc được đàm phán trong khuôn khổ của hiệp định song phương và đã được ghi nhận, đàm phán, do đó có thể dự đoán được, trong khi ở đây (với Mỹ), không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Hơn nữa, chúng ta thấy là chưa bên nào thông tin về chủ đề này. Có tin đồn rằng đàn anh Trung Quốc không mấy hài lòng và đó là một trong những lý do tại sao thỏa thuận vẫn chưa được công bố đầy đủ chi tiết, đặc biệt là về khía cạnh hàng “trung chuyển” - điều sẽ rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sản xuất tại Việt Nam. Đọc thêmQuan hệ Việt-Trung trong cơn bão thuế quan Mỹ RFI : Trong khi các hành động của Hoa Kỳ đang hướng tới chiến lược thương mại đơn phương hơn, các hiệp định thương mại tự do chiếm ưu thế như thế nào, ví dụ hiệp định EVFTA giữa Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi. Như tôi đã đề cập, các hiệp định thương mại tự do thiết lập một khuôn khổ tin cậy, hợp lý và trên hết là có thể dự đoán được, cho phép đầu tư. Đừng quên rằng để phát triển sản xuất, cần đầu tư trong 2 hoặc 3 năm. Điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều, và ông Trump sẽ phải chấp nhận điều này. Chiến lược được gọi là “đơn phương” của Mỹ, trước tiên là không thể đoán trước được, đó là điều rất tệ cho đầu tư, cho việc xây dựng hoặc di dời chuỗi giá trị. Tôi nghĩ rằng các khuôn khổ ổn định và có thể dự đoán được, chẳng hạn như các hiệp định thương mại tự do, sẽ mang lại sự bền vững và đảm bảo tính lâu dài. RFI : Làm thế nào các công ty và nhà đầu tư châu Âu, hợp tác với các đối tác Việt Nam, có thể khai thác EVFTA sau 5 năm có hiệu lực để bù đắp những khó khăn do thuế quan của Mỹ gây ra ? Jean-Jacques Bouflet : Đầu tiên là phải có các điều kiện cạnh tranh công bằng. Tôi xin nhắc lại rằng Liên Hiệp Châu Âu đã chấp nhận sự bất đối xứng trong việc thực hiện EVFTA, vì Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Việt Nam có 10 năm để đạt được thương mại tự do hoàn toàn. Họ vẫn còn 5 năm nữa. Và có một số hàng hóa vẫn còn thuế quan đáng kể, mặc dù chúng đã bắt đầu giảm đáng kể. Nhưng vẫn còn những loại thuế, ví dụ như đối với ô tô. Tất nhiên, ô tô do Liên Hiệp Châu Âu xuất khẩu sẽ có thuế quan bằng 0 sau 9 hoặc 10 năm. Thử tưởng tượng rằng ô tô của Mỹ sẽ có thuế quan bằng 0 vào tháng 10 hoặc ngày 01/01/2026. Nếu như vậy, các điều kiện cạnh tranh sẽ không hoàn toàn công bằng, cho nên sẽ phải xem Liên Âu phản ứng như thế nào. Tôi xin nhắc lại rằng trong số các quy tắc của OMC, có một quy tắc được gọi là điều khoản tối huệ quốc và Hoa Kỳ đã nhận được những lợi thế về thuế quan ưu đãi và phân biệt đối xử. Nếu chúng không được ghi trong khổ một hiệp định thương mại tự do, thì về lý thuyết, những nước dành ưu đãi thuế quan đơn phương này cho Mỹ cũng phải mở rộng những ưu đãi đó cho tất cả các thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Cho nên, chúng ta cùng chờ xem. Ủy viên châu Âu Sefcovic sẽ đến Việt Nam và chúng tôi sẽ hỏi ông ấy về cách ông ấy dự định khôi phục các điều kiện cạnh tranh công bằng, đặc biệt liên quan đến các đối thủ cạnh tranh có lợi thế về thuế quan ưu đãi nằm ngoài khuôn khổ pháp lý của các hiệp định thương mại tự do của OMC. RFI : Việt Nam thấy không còn lựa chọn nào khác ngoài việc mở rộng các thị trường và tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do. Liên Âu có thể giúp Việt Nam cải thiện năng lực cạnh tranh như thế nào ? Jean-Jacques Bouflet : Dĩ nhiên là bằng việc áp dụng hiệp định thương mại tự do. Như tôi đã nói, hiệp định thương mại tự do là một khuôn khổ ổn định và có thể dự đoán được, có thể tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Dĩ nhiên thuế quan đóng một vai trò then chốt, nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là năng lực cạnh tranh quốc tế. Và để làm được điều đó, Việt Nam cần cải thiện chất lượng sản xuất, thu hút đầu tư và tiếp thu bí quyết để có thể hy vọng tìm kiếm thị trường mới. Đọc thêmEuroCham : Tinh giản hành chính nhưng cần nhanh, hiệu quả để Việt Nam tăng hấp lực Dĩ nhiên là với tình hình Mỹ hiện nay, có một sự bất ổn và khó lường nhất định, cho nên Việt Nam vừa phải có chiến lược đa dạng hóa, vừa phải tăng cường trao đổi thương mại với các quốc gia có một khuôn khổ trao đổi thương mại ổn định và có thể dự đoán được, tức là những nước có hiệp định thương mại tự do. Về năng lực cạnh tranh, như tôi đã nói, đó là đầu tư. Ở điểm này, Việt Nam vẫn còn một số việc phải làm để điều chỉnh chính sách của mình. Họ đã bắt đầu thực hiện cải cách, hiện giờ chủ yếu là ở cấp độ hành chính. Nhưng họ phải tiếp tục mở cửa cho thương mại quốc tế, cho nước ngoài. Cách tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh của mình là tự mình đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Và đó là điều Việt Nam cần hiểu. Việt Nam cũng phải tự do hóa chính sách nhập khẩu, chính sách đầu tư để trở thành một nhân tố chủ chốt trong chuỗi giá trị toàn cầu của thương mại thế giới. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch EuroCham tại Việt Nam, phụ trách vận động chính sách. (1) Tri Thức - Znews, ngày 06/08/2025. (2) EuroCham, Thông cáo báo chí "EVFTA tròn 5 tuổi".
    --------  

À propos de Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Site web du podcast
Applications
Réseaux sociaux
v7.23.7 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 9/9/2025 - 10:32:10 PM